Cầu chúc mọi người:
- Sức khỏe
- Cầu được - Ước thấy
Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013
PHẬT HỌC CĂN BẢN (8,9&end)
Quyển sách cho Nhân Loại
Tóm lược Đạo Pháp của Đức Phật
----
Buddhadasa Bhikkhu
(Hoang Phong, chuyển ngữ)
(1906 - 1993)
Chương VIII
TẬP LUYỆN VỀ SỰ QUÁN THẤY
SÂU XA
Trong
phần dưới đây chúng ta thử tìm hiểu chi tiết hơn các kỹ thuật luyện tập về sự
quán thấy sâu xa đã được nhiều vị thầy khai triển về sau này, bởi vì thật ra thì
trước đó Đức Phật không hề nêu lên các kỹ thuật ấy. Các phép tập luyện này cốt
dành cho những người thuộc các cấp bậc còn khá kém, chưa đủ khả năng tự mình quán
thấy một cách tự nhiên khía cạnh bất toại nguyện của sự hiện hữu trong thế gian
này. Dầu sao thì đấy cũng không có nghĩa là các phép luyện tập trên đây sẽ đương
nhiên mang lại các kết quả trội hơn so với các phương pháp luyện tập tự nhiên.
Thật vậy trong Tam Tạng Kinh chỉ thấy duy nhất nêu lên phương pháp tự nhiên mà
thôi. Dù sao thì cũng có một số người cho rằng sự quán thấy sâu xa chỉ có thể đạt
được bởi những người đã thực hiện được một thể dạng đạo hạnh hoặc có sẵn một khả
năng thiên phú nào đó, và đối với những người đặc biệt này thì sự kiện hiểu được
toàn vẹn các vật thể chỉ là một trò chơi của trẻ con. Vậy đối với những người
không có được khả năng siêu nhiên ấy thì phải làm thế nào bây giờ? Chính vì lý
do đó mà các vị thầy đã triển khai các kỹ thuật luyện tập tuần tự nhằm vào mục đích
giúp họ, đấy là những bài giảng rất sáng sủa, chính xác và đầy đủ từ đầu đến cuối,
và có thể mang ra áp dụng ngay từng bước một, tất nhiên là có quy củ và phải chuyên
cần (ta có thể nhờ vào sự cố gắng và trí thông
minh tự nhiên để phát huy trí tuệ hầu giúp mình quán thấy được bản chất của mọi
vật thể, thế nhưng đối với một số người khác thì có thể họ gặp phải một vài khó
khăn nào đó khi bắt tâm thức phải tập trung và làm việc, dó đó các vị thầy đã
đưa ra một phương pháp tuần tự và chi tiết giúp các người này thăng tiến từng
bước một).
Các
phép tập luyện trên đây nhằm mục đích phát huy sự quán thấy sâu xa và hiện nay
được gọi là vipassanâ-dhura (tức là thiền minh sát, vipassanâ có nghĩa là nhìn các
vật thể đúng như thế, dhura có nghĩa là sự vận hành hay chuyên chở). Vipassanâ-dhura
là một phép luyện tập đối nghịch lại với sự học hỏi trong sách vở (gantha-dhura, gantha có nghĩa là sách vở), tuy nhiên ngày nay cả hai phép luyện tập trên đây
được xem như là các phương tiện góp phần bổ túc chung cho việc giảng dạy. Vipassanâ-dhura là cách học hỏi bằng
kinh nghiệm nội tâm, đấy là một sự luyện tập tâm thức không nhất thiết cần đến
sách vở. Cả hai thuật ngữ trên đây (vipassanâ-dhura và gantha-dura) đều không hề được nêu lên trong Tam Tạng Kinh, mà chỉ
thấy xuất hiện trong các văn bản mới sau này mà thôi. Tuy nhiên không phải vì
thế mà vipassanâ-dhura không phải là
một phép luyện tập đích thật của Phật giáo, tức có nghĩa là dành cho những ai
mong cầu tìm thấy sự giải thoát khỏi mọi khổ đau. Phép luyện tập này được trực
tiếp khai triển dựa vào sự tập trung và phép nội quán (instrospection - tức là cách nhìn ngược vào tâm thức
mình để phân tích và tìm hiểu các hiện tượng) thật kiên trì. Các vị thầy xưa có nêu lên một số tiêu
đề liên quan đến việc tập luyện vipassanâ
như sau:
- Cơ sở hay nền tảng của vipassanâ là gì?
- Vipassanâ
được nhận biết nhờ vào các đặc điểm nào?
- Sự vận hành đích thật của cái được gọi là vipassanâ là gì?
- Kết quả tối hậu của vipassanâ
là gì?
Đối với
câu hỏi thứ nhất liên quan đến nền tảng của vipassanâ
thì lời giải đáp sẽ là: đạo đức và sự tập trung. "Vipassanâ" có nghĩa là "sự tập trung sâu xa" và tức là một sự quán thấy minh bạch
hiển hiện lên trong một tâm thức hân hoan và đã loại bỏ được tất cả mọi ô nhiễm.
Niềm hân hoan đó chỉ có thể phát sinh khi nào thực hiện được sự tinh khiết đạo
đức (sîla-visuddhi), vì thế cần phải
tạo được cho mình một căn bản đạo đức và thực hiện được một thái độ lành mạnh và
lương thiện. Điều này được ghi trong kinh điển hẳn hoi (kinh Rathavinîta-Sutta, Majjhima Nikâya, 24) và được mô tả như một phép luyện tập gồm nhiều
giai đoạn liên tiếp nhau gọi là "bảy phép tinh khiết hóa" mà cấp bậc
cao nhất sẽ tương quan với Con Đường và Quả (sự viên
mãn). Các vị thầy xếp
sự tinh khiết hóa đạo đức (tu giới) vào cấp bậc thấp nhất trong số bảy cấp bậc. Đấy là cách
tạo cho mình một thái độ hoàn hảo không chê trách được và đấy là những gì thật
cần thiết giúp thực hiện sự tinh khiết hóa tâm thức (citta-visuddhi). Thể dạng đạo đức trên đây chỉ có thể đạt được khi
nào tâm thức loại bỏ được tất cả mọi thứ ô nhiễm và tinh khiết hóa được các tư
duy (ditthi-visuddhi) khiến cho mọi sự
hiểu biết sai lầm theo đó cũng phải chấm dứt. Sự giải thoát đó sẽ giúp phát hiện
sự tinh khiết mang lại từ sự chấm dứt mọi nghi ngờ (kankhâvitarana-visuddhi), sự tinh khiết này lại giúp hiển hiện lên
sự tinh khiết phát sinh từ sự hiểu biết và quán thấy được con đường nên bước theo
và con đường phải tránh (maggâ-magga-nânadassana-visuddhi).
Sự hiểu biết về Con Đường như vừa nêu lên lại tiếp tục đưa đến sự tinh khiết bằng
sự hiểu biết và quán thấy sự thăng tiến suốt trên Con Đường (patipadâ-nânadassana-visuddhi). Vào giai
đoạn này thì sự quán thấy sâu xa sẽ trở nên toàn diện hơn và mang tính cách trực
giác: đấy chính là thể dạng tinh khiết đích thật của sự hiểu biết và quán thấy
(nânadassana-visuddhi) và đấy cũng là
sự hoàn thiện của Con Đường Bát Chánh. Khi bắt đầu bước vào Con Đường thì cũng
sẽ tự động đạt được ngay Quả của nó, và khi nào đạt được Con Đường (sự viên mãn) thì cũng có thể xem như là đã đạt được điểm tột đỉnh
của sự luyện tập (đại sư Buddhadhasa luôn quan niệm rằng tất
cả đều đạt được ngay, khi mới khởi sự tu tập thì cũng đã đạt được kết quả dù rất
thấp, sau đó khi đã đi hết Con Đường thì sẽ đạt được sự viên mãn cuối cùng và
cao nhất).
Tinh
khiết đạo đức tượng trưng cho một thái độ không thể chê trách được đối với tất
cả những gì liên quan đến thân xác (hành động) và ngôn từ. Khi nào vẫn còn có thể phạm vào một chút
sai trái dù thật nhỏ nhoi trong cách hành xử qua thân xác (hành động) hay ngôn từ, thì khi đó vẫn có thể cho rằng chưa đạt
được đạo đức hay "giới luật" đúng với ý nghĩa của nó. Trái lại khi nào đạo đức được giữ gìn toàn vẹn
thì cũng có nghĩa là đã đạt được sự thanh thản trong hành động và ngôn từ, kết quả mang lại là một thể dạng bình lặng. Tiếp theo đó thể dạng
này sẽ đưa đến các giai đoạn khác của sự tinh khiết hóa gồm có: sự chấm dứt
tình trạng thiếu hiểu biết, sự chấm dứt mọi nghi ngờ (hoang mang), nhìn thấy được Con Đường nào phải theo và con đường nào không nên bước
vào, hiểu biết và quán thấy được quá trình thăng tiến trên Con Đường, và sau hết
là sự quán thấy sâu xa và toàn vẹn bằng trực giác. Đấy là năm giai đoạn biểu trưng
cho phép luyện tập vipassanâ đúng với
ý nghĩa đích thật của nó. Sự tinh khiết đạo đức và tinh khiết tâm thức đơn giản
chỉ là cánh cửa để mở vào con đường vipassanâ.
Tóm
lược về bảy phép tinh khiết hóa (I đến VII), năm giai đoạn của Vipassanâ
(1 đến 5) và
chín giai đoạn hoàn thiện của sự hiểu biết (a đến i)
I. Sự tinh khiết đạo đức (giới)
II. Sự tinh khiết tâm thần (định)
III. 1) Sự chấm dứt các tư duy sai lầm
IV. 2) Sự chấm dứt mọi nghi ngờ
V.
3) Sự hiểu biết và quán thấy Con Đường
VI. 4) Sự hiểu biết và quán thấy quá trình thăng
tiến trên Con Đường:
(a):
Ý thức sự khởi đầu và sự chấm dứt của các hiện tượng (b): Ý thức sự chấm
dứt của các hiện tượng
(c):
Ý thức được sự sợ hãi
(d):
Ý thức được sự nguy hiểm
(e):
Sự tỉnh ngộ (vỡ mộng)
(f):
Ham muốn được giải thoát
(g):
Nỗ lực để tự giải thoát
(h):
Quyết tâm vững chắc
(i):
Khả năng hiểu biết Bốn Sự Thật Cao Quý
VII. 5) Sự quán thấy sâu xa, toàn vẹn và bằng trực
giác (tuệ)
Muốn đạt
được sự tinh khiết hóa vượt thoát khỏi sự
hiểu biết sai lầm về các sự vật thì phải loại bỏ được tất cả các ý nghĩ sai
lầm, dù đấy là các ý nghĩ nội tại hay thu đạt được, gồm các sự tin tưởng phi lý
vào ma thuật và các ý nghĩ sai lầm về bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Chẳng
hạn như xem thân xác và tâm thức là những thứ bền vững, quan trọng, hay là một
"cái ngã", hoặc xem đấy là một con thú hay một con người thuộc cõi
thiên hay là thần thánh, mang tính cách kỳ diệu hay thiêng liêng. Không chịu chấp
nhận đấy chỉ là một sự cấu hợp đơn giản của bốn thành phần (tứ đại), hoặc đơn giản chỉ là một thân xác và một tâm thức, hoặc ngược lại thì
lại xem đấy là một "cái tôi" và trong đó hàm chứa một "linh hồn"
có thể xuất ra và nhập vào. Không nhìn thấy đấy chỉ là năm thứ cấu hợp: thân xác
(sắc), giác cảm và sự cảm nhận (thụ), sự nhận thức (tưởng), tư duy tích cực (hành) và tri thức giác
cảm (thức - consciousness). Không nhìn thấy được đấy chỉ là một tổng hợp kết nạp
các sự nhận thức tiếp nhận được từ mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức.
Các
khái niệm sai lầm sẽ đưa đến sự tin tưởng vào ma thuật và các vật thiêng liêng,
các thứ ấy là nguồn gốc làm phát sinh ra sự sợ hãi. Nghi thức và lễ lạc theo đó
mà được bày ra nhằm để hóa giải sự sợ hãi, và hậu quả mang lại là sự bám víu
vào các thứ nghi thức và lễ lạc ấy - tóm lại tất cả các thứ ấy sở dĩ phát sinh
chẳng qua là do các khái niệm sai lầm mà ra cả. Tình trạng đó cho thấy là tư
duy không phải là những thứ hoàn hảo gì cho lắm. Từ bỏ được các ý nghĩ sai lầm
có nghĩa là đạt được thể dạng mà trước đây (kinh sách
xưa) gọi là "cấp
bậc thứ ba của sự tinh khiết hóa" và các vị thầy gần đây hơn thì gọi đấy
là giai đoạn đầu tiên của vipassanâ.
Thể dạng tinh khiết hóa giúp loại bỏ được sự
nghi ngờ phát sinh từ phép nội quán hướng vào các nguyên nhân. Khi loại bỏ
được các ý nghĩ sai lầm thì sẽ nhận thấy chính mình chỉ là một sự kết hợp gồm
thân xác và tâm thức. Loại bỏ được sự nghi ngờ có nghĩa là nhận biết được bản
chất của các nguyên nhân (nghiệp) làm phát sinh ra sự hiện hữu của tổng thể
thân-xác-tâm-thức, và ta sẽ nhìn thấy thật sâu xa và thật chi tiết sự hiển hiện
của vô minh, thèm muốn, bám víu, nghiệp, sự tìm kiếm "thức ăn",
v.v... cũng như sự tương tác của chúng, tất cả những thứ cấu tạo ra thân xác và
tâm thức. Loại bỏ được mọi sự nghi ngờ đơn giản là kết quả mang lại từ sự hiểu
biết minh bạch về nguyên nhân và hậu quả của tất cả mọi vật thể. Đối với phép
luyện tập vipassanâ thì các vị thầy cho
biết là có hai mươi chín hoặc ba mươi thứ nghi ngờ, thế nhưng sau khi nghĩ kỹ
thì cũng chỉ cần tóm lược bằng một câu hỏi duy nhất như sau cũng đủ để tượng trưng
cho tất cả: "cái ngã" của tôi có hiện hữu hay không, nó đã từng hiện
hữu trước đây hay không, và sau này nó có còn tiếp tục hiện hữu nữa hay không,
và nếu có thì nó phải hiện hữu bằng cách nào? Phương pháp duy nhất làm tan biến
vĩnh viễn sự nghi ngờ đó là cách nhận biết được là không có "cái
ngã", đơn giản đấy chỉ là một sự kết hợp của nhiều nhân tố, gồm các cấu hợp
đủ loại, một hệ thống thần kinh pha trộn với vô minh, sự thèm muốn, bám víu,
nghiệp, thêm vào đó "thức ăn", v.v... Chính là nhờ vào sự kiện không
hề có "cái tôi" cho nên người ta mới có thể loại bỏ được ý nghĩ mơ hồ cho rằng "tôi là, tôi
đã, tôi sẽ" (các chữ
ý nghĩ
mơ hồ là dịch theo ấn bản tiếng Pháp, trong bản
tiếng Anh thì là foolish idea, có
nghĩa là ý nghĩ dại dột hay ngu xuẩn. Thật ra thì câu này có thể hiểu là: nếu
"cái tôi" thật sự hiện hữu - tức có thật - thì làm thế nào mà ta có
thể loại bỏ được nó).
Khi đã hoàn toàn loại trừ được mọi nghi ngờ thì sẽ đạt được giai đoạn thứ hai của
phép luyện tập vipassanâ. Dù sao điều
đó cũng không có nghĩa là đã dứt bỏ vĩnh viễn được ảo giác về "cái tôi"
vì nó vẫn còn lưu lại một số tàn tích nào đó. Tuy nhiên một sự hiểu biết minh bạch
về cách tương tác giữa các nguyên nhân cũng có thể làm tan biến mọi sự hoài
nghi và loại bỏ được ý nghĩ về "cái tôi" dưới các hình thức thô thiển
nhất (câu này rất cô đọng, sự tương tác giữa các
nguyên nhân có thể hiểu như là sự liên kết giữa thân xác, các xu hướng trong
tâm thức, nghiệp trong quá khứ, cơ duyên hiện tại..., tất cả sự phức tạp đó tạo
ra ảo giác là hình như có một "cái tôi" chỉ huy hay hàm chứa trong
cái tổng thể kết hợp hỗn tạp tạo ra một cá thể con người).
Khi nào
vượt thoát khỏi sự nghi ngờ thì khi đó ta mới có thể nghĩ đến việc tinh khiết hóa
giúp phân biệt được con đường đúng phải
theo và con đường sai không nên bước vào. Cũng phải nói là có thật nhiều
chướng ngại xảy ra ngăn chận quá trình thăng tiến trên đây, đấy là những thứ chướng
ngại thường thấy xuất hiện trong khi tập luyện vipassanâ. Tình trạng tập trung tâm thức có thể làm phát sinh ra
nhiều hiện tượng lạ lùng có thể tác động mạnh đến người hành thiền, chẳng hạn
như những vầng ánh sáng tuyệt vời hiển hiện ra với con mắt nội tâm (hai mắt vật chất thì khép lại hoặc nửa khép nửa mở và
không "nhìn thấy" gì cả). Nếu một người hành thiền bám ngay vào đấy và nghĩ rằng đấy là "kết
quả do phép luyện tập vipassanâ mang
lại", hoặc cảm thấy tự mãn và nghĩ rằng: "đây quả đúng là một điều kỳ
diệu thật phù hợp với tôi", thì sẽ dễ gặp nguy cơ tạo ra cho mình sự bế tắc,
khiến không thể tiếp tục được phần còn lại của Con Đường và Quả. Chính vì lý do
đó mà các vị thầy xem đấy là một sự lệch lạc, một ngõ cụt. Ngoài ra còn có những
thứ lệch lạc khác nữa, chẳng hạn như cảm thấy sự hân hoan tràn ngập và đồng thời
thì tâm thức bị sự toại nguyện xâm chiếm quá mạnh khiến cho nó không còn phát động
được sự nội quán nữa, và người hành thiền vội vã kết luận ngay rằng đấy
"quả đúng là Niết-bàn rồi, đúng là nó đã xảy ra tại nơi này và ngay trong
lúc này". Thật ra thì đấy chỉ là tình trạng con đường đang bị tắc nghẽn
khiến cho mình không còn có thể thực hiện được một sự thăng tiến nào nữa. Các vị
thầy bảo rằng ngay cả sự quán thấy minh bạch về bản chất của thân xác và tâm thức
cũng có thể khiến cho người hành thiền tự mãn và tạo ra ảo giác là mình đã đạt
được một cấp bậc cao về sự hiểu biết tâm linh, và tình trạng ấy có thể khiến
cho người hành thiền trở nên quá tự tin. Đấy cũng là một hình thức cản trở khác
ngăn chận sự thăng tiến trong khi luyện tập vipassanâ.
Ngoài ra cũng thường thấy xảy ra trường hợp mà người hành thiền lợi dụng khả
năng thực hiện được để biến thân xác mình trở thành cứng đơ và tri thức thì mất
hết khả năng cần thiết để thực hiện phép nội quán. Đấy là một thứ trở ngại rất
khó loại bỏ vì thông thường người hành thiền rất thích thú với thể dạng đó và
xem đấy như là một khả năng siêu nhiên, và có thể còn xem đấy như là Quả của
Con Đường. Thật ra thì đấy chỉ tượng trưng cho những gì thật đáng ái ngại.
Một
trường hợp khác cũng thường hay xảy ra, đấy là sự xuất hiện của một thể dạng cực
lạc (béatitude - blissful rapture - đại phúc hạnh) mà người hành thiền chưa bao giờ cảm thấy trước đó. Sự kiện này trước hết
tạo ra cho người hành thiền một sự kinh ngạc và bất ngờ, và sau đó thì có thể
mang lại cho người này một sự tự mãn hoàn toàn không căn cứ. Nếu tình trạng cực
lạc đó kéo dài thì thân xác và tâm thức của người hành thiền sẽ rơi vào một thể
dạng an vui sâu xa, tất cả các khó khăn cũng theo đó mà tan biến. Tất cả những
gì mà trước đây người hành thiền thích hoặc không thích vụt trở thành khác đi
khi nghĩ đến chúng. Đồng thời những gì trước đây từng làm cho người hành thiền
sợ hãi, lo âu, kinh hoàng và bồn chồn cũng sẽ không còn tạo ra một tác động nào
nữa. Tình trạng như vừa kể khiến cho người hành thiền ngỡ rằng mình đã đạt được
sự giải thoát khỏi các thứ nọc độc tâm thần. Khi nào còn vướng mắc trong tình
trạng đó thì người hành thiền vẫn còn cứ ngỡ rằng mình đã thực hiện được tất cả
các đặc tính của một cá thể đã đạt được sự viên mãn thật sự. Thế nhưng trên thực
tế thì sự thỏa mãn phát sinh từ thể dạng đó chỉ là một thứ trở ngại ngăn chận sự
thăng tiến trên đường luyện tập vipassanâ.
Dù sao thì sau đó thể dạng này cũng sẽ dần dần phai mờ đi khiến cho người hành
thiền quay trở lại tình trạng thèm muốn các vật thể như trước, hoặc không còn
thèm muốn gì cả, thậm chí tình trạng chung có thể trở nên trầm trọng hơn trước
kia nữa.
Ngoài
ra còn một trở ngại khác nữa phát sinh từ sự tin tưởng quá mạnh, một lòng tin
mà trước đó người hành thiền chưa bao giờ có: đấy là lòng tin nơi Tam Bảo - Phật,
Pháp và Tăng Đoàn - hay vào một số lý thuyết nào đó (những chuyện
tưởng tượng và không thực)
mà người hành thiền tự sáng chế ra. Ngoài ra người hành thiền cũng có thể cảm thấy
một sự hài lòng thật cao độ đối với Đạo Pháp (Dhamma). Hơn nữa khả năng giữ cho mình không bám víu vào tất cả mọi
thứ cũng có thể trở nên rất mạnh và vụt khiến cho người hành thiền nghĩ rằng
mình đã đạt được Con Đường và Quả, hoặc cũng có thể nghĩ rằng đấy chính là Niết-bàn.
Các hiện tượng đó là những khó khăn lớn lao đối với những người lần đầu gặp phải
tình trạng này. Cho đến khi nào chưa hội đủ khả năng để loại bỏ hoàn toàn những
thứ ô nhiễm tinh tế đó thì người hành thiền vẫn có thể cứ nghĩ rằng đấy là những
gì thích hợp với mình. Cho đến khi nào ý thức được những thứ cảm nhận ấy chỉ là
các chướng ngại thì lúc đó người hành thiền mới bắt đầu nhận thấy được Con Đường
đích thật và những gì không đúng. Sự hiểu biết đó tượng trưng cho giai đoạn thứ
ba của phép luyện tập vipassanâ và thể
dạng tinh khiết hóa thứ năm.
Trong
khi thực hiện các giai đoan trên đây người tu tập cũng phải cẩn thận, không nên
dây dưa đến các con đường khác bên cạnh (chúng ta đều
hiểu rằng tu tập gồm có nhiều phương pháp khác nhau hầu thích hợp cho từng người,
các con đường bên cạnh không hẳn là các con đường sai, thế nhưng vướng vào đấy
có thể gây ra hoang mang. Dầu sao thì tất cả cũng chỉ là những phương tiện thiện
xảo - upaya, người tu tập phải luôn hướng vào trí tuệ, và con đường đang được đại
sư Buddhadasa trình bày là một trong những con đường ngắn nhất và trực tiếp nhất
để phát huy phẩm tính đó).
Tuy nhiên, khi nào đã nhận biết được Con
Đường đúng đắn, thì người hành thiền cũng sẽ nhận thấy những khám phá mà mình
sẽ thực hiện được sau này cũng sẽ tiếp tục theo nhau mà xuất hiện trên Con Đường
đó. Sự hiểu biết về Con Đường sẽ dần dần được khai triển thêm và mang lại một sự
thông hiểu hoàn toàn minh bạch về bản thể đích thật của mọi sự vật, và sau cùng
là đưa đến một thể dạng buông xả (không bám víu) và một sự tự chủ hoàn toàn đối với các sự vật. Đối với
tâm thức thì nhờ vào sự hiểu biết đó, nó sẽ đạt được sự quán thấy sâu xa về Bốn
Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Người ta gọi đấy là thể dạng tinh khiết phát sinh từ
sự hiểu biết và quán thấy được quá trình thăng tiến trên Con Đường. Đấy là giai
đoạn thứ tư của phép luyện tập vipassanâ
và là thể dạng tinh khiết hóa thứ sáu. Tam Tạng Kinh không hề nêu lên một chi
tiết nào về quá trình thăng tiến trên đây, tuy nhiên về sau này thì có một số
các vị thầy đã phân chia quá trình ấy thành các giai đoạn như sau (tức chín giai đoạn hoàn thiện của sự hiểu biết và có
thể xem đấy là chín giai đoạn của sự phát triển trí tuệ):
a) Khi người tu tập bắt đầu đạt được một sự thăng tiến
đúng đắn trên đường luyện tập vipassanâ
thì khi đó sẽ có thể hiểu được một cách sâu xa hơn và chi tiết hơn các hiện tượng
liên hệ đến sự sinh, sự già nua, khổ đau và cái chết của tất cả mọi vật thể, có
thể quán thấy được hoàn toàn sự khởi đầu cũng như sự chấm dứt của tất cả mọi hiện
tượng. Tất cả mọi sự hiện hữu dưới hình thức hiện tượng (tức những gì hiển hiện lên và thuộc vào tất cả mọi
lãnh vực, từ vật-chất đến phi-vật-chất, thuộc nội tâm cũng như ngoại cảnh) đều sẽ được đơn giản nhận biết một cách minh bạch như
là một quá trình bất tận của sự sinh và cái chết, của sự khởi đầu và chấm dứt,
như ánh sáng lấp lánh trên mặt biển hay như những gợn sóng nhấp nhô và tỏa rộng.
Đấy là những gì mà người ta gọi là "sự hiểu biết về sự khởi đầu và sự chấm
dứt" (udayabbayâ-mupassanâ-nâna).
Sự hiểu biết đó phát sinh từ phép nội quán thật sắc bén, minh bạch và bền vững,
đến độ có thể giúp đạt được sự hiểu biết vững chắc, tương tự như một thứ màu
nhuộm ăn sâu vào tâm thức, và đủ mạnh để tạo ra cho người hành thiền sự tỉnh ngộ
(tức vỡ mộng) đối
với các vật thể và mang lại sự chấm dứt của mọi sự bám víu. Đấy là giai đoạn thứ
nhất của sự hiểu biết (trí tuệ) và quán thấy quá trình của sự thăng tiến trên Con Đường.
b) Nếu
sự khởi đầu và sự chấm dứt của mọi hiện tượng được quán thấy cùng một lúc (chẳng hạn như nhìn thấy một người nào đó thì cũng nhận
thấy ngay cùng một lúc sự sinh và cái chết của người ấy), và như thế sẽ không còn thể nào nhận ra được một cách
minh bạch hai thể dạng đó như trước đây nữa khi ta tập trung để nhìn chúng một
cách riêng rẽ (thí dụ ta nhìn thấy sự sinh và cái chết của
một người mà ta đang quan sát "dính liền" với nhau thì ta sẽ không còn
thể nào nhìn thấy được người ấy mang dáng dấp trẻ đẹp hay già nua, dễ thương
hay đáng ghét ở giữa sự sinh và cái chết, kể cả hai thể dạng này cũng không còn
nhận ra được chúng một cách riêng rẽ). Trong giai đoạn này, người hành thiền có thể không cần
quan tâm đến thể dạng khởi đầu mà chỉ nhất thiết dồn sự tập trung vào thể dạng
chấm dứt. Điều này sẽ giúp nhìn thấy quá trình tan rã và biến mất với một cường
độ và một chiều sâu cực mạnh, đến độ dù cho hướng mắt để nhìn vào bất cứ thứ gì
thì cũng đều nhận thấy đấy chỉ toàn là sự hư hủy và cái chết mang tính cách thật
bao quát và toàn cầu (ta cảm thấy tất cả những gì chung quanh ta
đều đang suy thoái và bị hủy hoại, những gì ta nghĩ là đang hình thành thế
nhưng thật ra thì chúng cũng đều nằm chung trong một quá trình duy nhất là sự
hư hoại và tan rã).
Khi tâm thức khám phá ra được điều đó và duy trì bền vững được cách nhìn ấy thì
tâm thức cũng sẽ đạt được thêm một sự hiểu biết mới nữa gọi là "sự hiểu biết
về sự hư hủy và tan biến" (bhangânupassanâ-nâna).
Đấy là giai đoạn phát triển thứ hai của sự hiểu biết.
c)
Khi sự hiểu biết về sự hư hủy và tan biến đã được phát triển đầy đủ thì sẽ giúp
để ý thức được là tất cả mọi thứ đều đáng sợ. Tất cả mọi sự hiện hữu, dù thuộc
lãnh vực giác cảm, hình tướng (vật chất) hay phi-hình-tuớng (hiện tượng
tâm thần), phải được nhìn
như vô cùng kinh khiếp, bởi vì ta sẽ cảm nhận được sự hư hủy và tan biến của chúng
đang xảy ra trong từng giây phút một. Bất cứ ai khi đã cảm nhận được sự kiện đó
thì một sự nhận thức cực mạnh cũng sẽ phát sinh trong tâm thức của người ấy và
nó sẽ biến thành một sự sợ hãi thật sự. Tất cả mọi sự vật hiển hiện ra thật
kinh khiếp tương tự một liều thuốc độc, một thứ khí giới giết người, hoặc như một
toán giặc cướp hung tợn với đầy đủ khí giới. Toàn thể ba cảnh giới hiện hữu (tam giới: sắc giới, dục giới và vô sắc giới) đều trở thành đối tượng của sự sợ hãi. Ý thức được lợi ích của sự sợ hãi đối với tất cả
các hiện tượng (bhayatupatthana-nâna)
được xem như giai đoạn thứ ba (của sự hiểu biết hay trí tuệ).
d)
Khi nào sự ý thức về bản chất vô cùng sợ hãi đối với tất cả mọi sự hiện hữu dưới
hình thức hiện tượng được hoàn toàn phát triển thì khi đó ta cũng sẽ ý thức được
là từ bản chất, tất cả mọi sự vật đều nguy hiểm, tương tự như một khu rừng đầy thú
dữ, và nếu muốn tìm kiếm các thú vui trong khu rừng đó thì nhất định sẽ chẳng tìm
thấy được bất cứ một gì thích thú. Tình trạng ý thức đó về sự sợ hãi tất yếu (âdînavanupassana-nâna) nơi mọi sự hiện hữu
dưới hình thức hiện tượng là giai đoạn thứ tư.
e)
Khi tất cả mọi thứ được cảm nhận như những gì hoàn toàn nguy hiểm trên mọi mặt
thì sự tỉnh ngộ (thức tỉnh, vỡ mộng, hết mê muội) sẽ đến. Tất cả sẽ tương tự như một căn nhà bốc cháy và
chỉ còn để lại một đống tro và một bộ xương - chúng không mang một nét quyến rũ
nào cả. Sự tỉnh ngộ đó (nibbidânupassana-nâna)
đối với sự liên hệ giữa ta và mọi vật thể do điều kiện mà có (choses conditionnées / conditioned things) là giai đoạn thứ năm của sự phát triển hiểu biết.
f)
Khi nào sự tỉnh ngộ đích thật đã đạt được thì khi đó niềm khát vọng thật sự muốn
loại bỏ được các vật thể cũng sẽ hiển hiện lên. Sự khát vọng đó hoàn toàn khác
với sự ước mong bình thường tìm thấy được sự giải thoát, bởi vì sự ước mong bình
thường không hề được thúc đẩy bởi sức mạnh của sự tập trung và sự quán thấy sâu
xa, do đó sẽ không phải là một niềm khát vọng thật sự. Sự tỉnh ngộ phát sinh từ
sự quán thấy sâu xa của phép luyện tập vipassanâ
bao trùm toàn bộ tâm thức vì thế niềm khát vọng được giải thoát cũng sẽ trở nên
thật rộng lớn như chính sự tỉnh ngộ, và cũng chính vì thế mà nó hoàn toàn mang
tính cách đích thật. Niềm khát vọng tránh được sự bất toại nguyện của các thể dạng
hiện hữu dưới hình thức hiện tượng ấy cũng bao la như niềm khát vọng của một
con nhái tìm cách để tháo thân trước cái miệng đang há to của một con rắn, hoặc
như là một con hoẵng hay một con chim bị mắc bẫy và đang tìm cách thoát ra. Niềm
khát vọng thật sự muốn thoát ra khỏi khổ đau đó (muncitukamyatâ-nâna) là giai đoạn thứ sáu.
g)
Trong giai đoạn này, niềm khát vọng tìm thấy sự giải thoát đã trở nên vững chắc
và do đó một sự nỗ lực cực mạnh cũng phát sinh theo, nhằm tìm kiếm một lối thoát.
Nhờ vào phép nội quán ta nhận thức được là sự bám víu và các thứ nọc độc tâm thần
là nguyên nhân làm cho tâm thức phải bị tù đày, và đồng thời đấy cũng là các mối
dây siết chặt nó vào cảnh huống ấy. Vì thế ta phải tìm ngay mọi cách để làm giảm
bớt đi sự ô nhiễm, và khi nào sự ô nhiễm bắt đầu giảm xuống thì ta cũng nhân đó
mà tìm cách để hoàn toàn loại bỏ nó.
Hãy
nêu lên một hình ảnh cụ thể để so sánh với sự giảm thiểu ô nhiễm trên đây. Thí
dụ có một người chài lưới kéo lên được một con rắn nước, thế nhưng lại cứ nhất
định cho đấy là một con cá. Nếu có ai bảo cho hắn biết đấy là một con rắn thì hắn
cũng không tin, ngoại trừ trường hợp mà hắn gặp được một vị thầy tốt, khéo léo
và từ bi tìm cách hướng dẫn và giáo huấn hắn, cho đến khi nào hắn tự mình nhìn
thấy được đấy là một con rắn, và chỉ khi ấy thì hắn mới bắt đầu biết sợ và tìm
cách giết con rắn. Hắn sẽ nắm lấy cổ con rắn đưa lên khỏi đầu và quay thật mạnh
cho đến lúc con rắn kiệt lực và chết. Hình ảnh trên đây giúp ý thức được là tấm
màn vô minh làm cho tâm thức bị ô nhiễm là nguyên nhân khiến cho con người bị
trói buộc trong một tình trạng thật đáng kinh sợ (người chài
lưới tưởng con rắn là con cá nên không biết sợ là gì, đối với chúng ta cũng thế
tấm màn vô minh che lấp tâm thức khiến cho chúng ta chẳng biết sợ sự hư hủy và
tan biến của mọi hiện tượng luôn bủa vây chung quanh và cả trong tâm thức của
chính mình).
Nếu
không biết tập luyện để làm giảm bớt dần trong từng ngày mọi tác động của những
thứ ô nhiễm làm cho tâm thức bị u mê thì sau này sẽ khó lòng để loại trừ hoàn
toàn được chúng. Sức tác động của chúng mạnh hơn rất nhiều so với sự hiểu biết
còn non kém mà ta mang ra sử dụng để đối đầu với chúng. Vì lý do đó nên sự hiểu
biết cần phải được khai triển thêm, và nhờ vậy khổ đau do những thứ ô nhiễm tâm
thần gây ra cũng theo đó mà sẽ giảm bớt đi một cách tương xứng. Phải luôn tự nhắc
nhở trong tâm trí là tất cả đều vô thường, không hàm chứa một giá trị nội tại
nào và cũng không có cái ngã nào cả (không thuộc của ai cả), không có gì đáng để có hay để được như thế, sự nhắc nhở
đó sẽ giúp ta không nên nuôi dưỡng những gì có thể làm cho tâm thức mình bị u mê,
và đồng thời sẽ làm giảm bớt đi trong từng ngày một các thứ ô nhiễm tâm thần.
Ta phải tự phát huy các khả năng của mình hầu giúp mình trở nên cứng cỏi hơn,
ngày càng tinh tế hơn và khéo léo hơn. Dù chỉ là một con người nhỏ bé thế nhưng
ta có thể vượt lên được những khó khăn to lớn như một quả núi. Ta chỉ là một
con chuột nhắt thế nhưng cũng có thể giết được con cọp. Ta luôn phải quyết tâm
và tìm kiếm các phương tiện phù hợp với khả năng của mình. Nếu như không có một
giải pháp nào có thể giúp ta xoay trở ngay tức khắc thì ta cũng phải tìm các phương
cách khác làm cho con cọp phải yếu sức đi trong từng ngày một, thay vì chỉ biết
lay hoay tìm cách để giết nó ngay lập tức. Sự tìm kiếm tích cực các phương tiện
vượt thoát (patisankhânupassana-nanâ)
là giai đoạn thứ bảy thuộc sự hiểu biết và quán thấy về sự thăng tiến trên Con
Đường.
h) Làm
suy giảm được các thứ ô nhiễm tâm thần sẽ giúp ta trở nên ngày càng tự chủ hơn
và ít bám víu hơn vào các vật thể. Giai đoạn phát triển tiếp theo của sự hiểu
biết đúng, tức kết quả mang lại từ sự buông xả không bám víu vào các sự vật, là
cách biết nhìn thấy tất cả mọi hiện tượng đều trống không, không hàm chứa một
thực chất nào cả, và không mang một vị thế nào cả (vô ngã) - dù đấy là súc vật, con người, v.v... - tất cả đều
không có một thực thể nào vì chúng đều vô thường, không có một giá trị gì cả vì
đều mang bản chất bất toại nguyện một cách sâu xa, không có gì quyến rũ cả vì
chỉ mang lại sự thất vọng. Tâm thức nhờ đó sẽ dần dần trở nên tự chủ hơn và không
để cho bất cứ thứ gì có thể thâm nhập vào được, dù chúng thuộc bất cứ một lãnh
vực hiện hữu nào. Các vật thể trước đây tỏ ra rất thích thú, đáng để cho ta thèm
muốn và bám víu bỗng dưng trở thành như một khối đá hay những hòn đất cục.
Hãy nêu
lên một hình ảnh để giải thích sự kiện vừa mô tả trên đây. Thí dụ một người đàn
ông lúc nào cũng yêu thượng vợ mình, thế nhưng người đàn bà lại không chung thủy,
và người đàn ông không còn thương vợ mình như trước nữa. Sau khi ly dị thì người
này được tự do muốn làm gì thì làm, và tâm thức của hắn sẽ không còn bị bấn loạn
nữa. Trong cấp bậc hiểu biết này (tức khi các thứ ô nhiễm tâm thần đã suy giảm), thì những gì trước đây tỏ ra vô cùng quyến rũ theo
cung cách của chúng bỗng dưng không còn mang một thực chất nào nữa, và nhờ đó
ta có thể loại bỏ chúng dễ dàng hơn và không còn để tâm đến chúng nữa, dù là
trong bất cứ trường hợp nào - tương tự như người đàn ông tìm thấy sự tự do sau
khi đã ly dị vợ (sự quyến luyến trước kia từng trói buộc
mình thì nay không còn nữa. Thí dụ trên đây cũng có thể đặt ngược lại: một người
dàn bà cũng có thể ly dị chồng để giải tỏa những sự trói buộc tâm thần). Sự buông xả đó đối với tất cả các hiện tượng (sankhârupekkhâ-nâna) là giai đoạn thứ tám.
i) Tâm
thức khi đã tìm được sự tự chủ và không còn bám víu vào mọi sự hiện hữu dưới hình
thức hiện tượng nữa thì sẽ giúp nó tiến xa thêm trên Con Đường và giúp nhận thức
được Bốn Sự Thực Cao Quý (saccanulomika-nâna).
Ở giai đoạn này, ta sẽ hoàn toàn hội đủ khả năng giúp loại bỏ tất cả mọi thứ ô
nhiễm tâm thần, và chặt đứt các sợi dây xích trói buộc ta trong thế giới (ngũ uẩn và các hiện tượng khác trong thế gian nay), hầu giúp ta trở thành một thánh nhân (aryan) dù là thuộc vào một cấp bậc cao
hay còn thấp. Đấy là giai đoạn thứ chín thuộc quá trình hiểu biết và quán thấy
về sự thăng tiến suốt trên Con Đường (xin chú ý là theo quan điểm của đại sư Buddhadasa
thì người tu tập sẽ đạt được ngay kết quả khi bắt đầu tu tập, dù đấy chỉ là một
cấp bậc thật thấp, dần dần từng bước một sẽ đạt được sau đó thể dạng A-la-hán.
Do đó A-la-hán không phải là một thể dạng được quy định dứt khoát, hoàn toàn và
đầy đủ và thuộc một bối cảnh bên ngoài mà người tu tập hướng vào đó như là một mục tiêu
phải đạt được. A-la-hán là một thể dạng của tâm thức được phát huy tuần tự tương
ứng với cấp bậc của người tu tập) .
Khi nào
vượt được tất cả các giai đoạn phát triển sự hiểu biết trên đây, kể từ sự hiểu
biết về sự khởi đầu và chấm dứt của mọi vật thể cho đến khả năng lĩnh hội được
Bốn Sự Thực Cao Quý thì khi đó người hành thiền cũng sẽ đạt được cấp bậc thứ tư
của phép luyện tập vipassanâ hay là cấp
bậc thứ sáu của sự Tinh khiết hóa (VI. 4). Sự hiểu biết tinh khiết và hoàn hảo phát sinh
từ cấp bậc này là một phương tiện giúp cho người tu tập nhận biết được con đường
đã đi qua, và sẽ mang lại cho người này một sự quán thấy sâu xa và hoàn hảo bằng
trực giác giúp người ấy tẩy xóa được tất cả mọi thứ ô nhiễm tâm thần (VII. 5).
Chương IX
SỰ VƯỢT THOÁT RA
KHỎI THẾ GIỚI
Phép
thiền định vipassanâ là một phép luyện
tập tâm thức nhằm mục đích nâng tâm thức lên một cấp bậc cao hơn, hầu giúp nó
vượt thoát khỏi mọi khổ đau. Tâm thức nhờ vào sự hiểu biết minh bạch rằng không
có gì đáng để thèm muốn, sẽ tự loại bỏ được mọi khổ đau; nhờ đó ta cũng sẽ
không còn bị các vật thể của thế giới lôi cuốn vào những sự bám víu và ghét bỏ
khác. Khi tâm thức đã nắm vững được sự hiểu biết siêu việt ấy thì sẽ vượt lên
được các điều kiện trói buộc của con người và đạt được một cấp bậc mà người ta
gọi là "lãnh vực siêu-thế-tục" (lokuttara-bhûmi).
Muốn
hiểu được lãnh vực siêu-thế-tục là gì thì trước hết phải hiểu được những gì trái
ngược lại với nó, tức đấy là lãnh vực thế-tục (lokiya-bhûmi). Lãnh vực thế-tục
bao gồm tất cả các cấp bậc mà nơi đó tâm thức còn có thể bị chi phối bởi các thứ
vật thể của thế giới (ngũ uẩn và mọi hiện tượng trong thế gian
này). Nói một cách
ngắn gọn thì thế giới gồm có ba cấp bậc là: cấp bậc của giác cảm (kâmâvacara-bhûmi) tức là cấp bậc mà tâm
thức tìm thấy sự thỏa mãn qua các thứ thích thú đủ mọi loại; cấp bậc hình tướng
(rûpavacara-bhûmi) là cấp bậc mà tâm
thức chán ghét các đối tượng giác cảm, tuy nhiên vẫn còn tiếp tục tìm thấy sự
thỏa mãn qua các thể dạng khác nhau của sự tập trung hướng vào các đối tượng hình
tướng; và sau cùng là cấp bậc vô-hình-tướng (arûpavacara-bhûmi), là cấp bậc cao nhất của tâm thức khi nó tìm thấy
sự thỏa mãn với những gì tuyệt hảo và sự an bình mang lại từ sự tập trung vào
các đối tượng khác hơn là hình tướng (trên đây là cách định nghĩa của đại sư Buddhadasa
về "tam giới" : dục-giới, sắc-giới, và vô-sắc-giới, và chúng ta thấy
rằng đại sư Buddhadasa quan niệm đấy là ba thể dạng bên trong tâm thức và không
phải là ba cõi thuộc bên ngoài con người như người ta thường hiểu). Hầu hết tất cả chúng sinh đều thuộc vào ba cấp bậc
tâm thần ấy. Dù đấy là con người, thiên nhân, các vị trời, thú vật hay chúng
sinh nơi địa ngục, thì tất cả đều gồm chung trong ba cấp bậc thế tục ấy. Tâm thức
của một chúng sinh có thể luân phiên trú ngụ hoặc trong cấp bậc này hoặc trong
một cấp bậc khác trong số ba cấp bậc trên đây; đấy không phải là một chuyện không
thể xảy ra được, mà thật ra đấy là những gì thật tự nhiên (thí dụ ta đang bị hận thù và giận dữ xâm chiếm thì
tâm thức ta thuộc vào cấp bậc dục giới của giác cảm đơn thuần - chẳng hạn như hàng
thú vật - , nếu ta phát lộ được lòng nhân từ và tìm thấy sự thanh thản và an
bình thì tâm thức ta lại chuyển sang cấp bậc của cõi hình tướng chẳng hạn - sắc
giới -, cũng nên hiểu thêm là thể dạng vô sắc giới thì khó hơn nữa). Thật vậy trên bình diện tổng quát, ta luôn có xu hướng
rơi vào cấp bậc giác cảm thiếu sự tập trung một cách thật tự nhiên, bởi vì thông
thường tâm thức con người luôn bị tác động và ảnh hưởng bởi những thứ thích thú
mang lại từ màu sắc, hình tướng, âm thanh, mùi, vị và sự đụng chạm thân xác.
Tâm thức chỉ có thể thoát khỏi được những sự thu hút ấy trong một vài trường hợp
thật hiếm hoi để cảm nhận được sự bình lặng và phúc hạnh phát sinh từ sự tập
trung vào các hình tướng hay các thể dạng vô-hình-tướng (các đối tượng vật chất hay phi-phật-chất) - tất cả tùy thuộc vào sức mạnh tập trung của tâm thức.
Vì thế,
tâm thức của một cá thế bất cứ lúc nào cũng có thể rơi vào một trong ba cấp bậc
tập trung trên đây (vì thế càng chủ động - tức giữ vững được
tâm thức - thì ta sẽ càng ít bị chuyển đổi từ cấp bậc này sang cấp bậc khác, nếu
không thì tâm thức sẽ luân phiên chuyển đổi hết cấp bậc này sang cấp bậc khác
như một chiếc chóng chóng).
Tại Ấn Độ, vào thời kỳ của Đức Phật, cách tu tập giúp phát huy các cấp bậc tâm
thức xảy ra thông thường hơn, bởi vì vào thời đó khắp nơi trong nước luôn có
nhiều người ẩn cư trong rừng để mong cầu tìm được sự an bình và hạnh phúc tương
quan với các cấp bậc tập trung mà họ thực hiện được. Trái lại ngày nay tìm được
những người như thế quả thật hết sức khó khăn, dù rằng trên thực tế thì bất cứ
một con người bình dị nào cũng đều hàm chứa một khả năng giúp mình đạt được các
cấp bậc ấy. Thí dụ nếu một người trong thế gian này cảm nhận được niềm hân hoan
tối thượng của sự tập trung vào hình tướng thì "thế gian" đối với người
ấy sẽ thu nhỏ dưới thể dạng đó (tức cõi sắc giới), bởi vì hắn không còn ý thức được bất cứ thứ gì khác
hơn (thí dụ một con người - tức thuộc cõi dục
giới - cảm nhận được niềm phúc hạnh bằng sức mạnh tập trung vào các đối tượng
hình tướng - sắc - thì tâm thức sẽ chuyển vào cấp bậc cao hơn tức là cõi sắc giới). Trong những lúc ấy và đối với người ấy thì "thế
gian" chỉ là như thế và sẽ tiếp tục giữ nguyên như thế cho đến lúc mà tình
trạng tâm thức của người ấy chuyển đổi khác đi (tức có thể
vượt lên cõi vô-sắc-giới hoặc tụt xuống cõi dục-giới. Xin mạn phép nhắc lại đây
là một quan điểm rất duy lý và khoa học khá đặc thù của đại sư Buddhadhasa cho
rằng "luân hồi" là một sự "chuyển đổi" các thể dạng tâm thức,
không cần phải có đức tin tôn giáo về sự tái sinh và các "cõi hiện hữu khác
nhau" - tức tam giới - mới có thể giải thích được hiện tượng luân hồi).
Ngay
cả trường hợp một người sống trong một cấp bậc thuộc vào một trong ba cấp bậc
trên đây đạt được sự yên lặng và thanh thản giúp người ấy duy trì được sự bất động
tương tự như một khối đá hay một khúc cây, thế nhưng sự ham muốn và bám víu vào
cái ngã vẫn còn luôn hiện hữu nơi người ấy (có nghĩa
là người ấy chưa đạt được sự giải thoát thật sự). Ngoài ra bên trong con người ấy vẫn còn hàm chứa đủ
mọi thứ ham muốn, kể cả dưới những hình thức thật tinh tế - chẳng hạn như thể dạng
thanh thản mà hắn đang có bỗng biến mất mang lại cho hắn sự thất vọng, và sự thất
vọng đó sẽ thúc đẩy hắn tìm kiếm một thể dạng thanh thản khác. Sự ham muốn muốn
được thay đổi ấy sẽ tạo ra nghiệp, và như thế có nghĩa là người ấy chưa vượt
thoát khỏi thể dạng thế tục, tức là chưa đạt được lãnh vực siêu-thế-tục.
Tâm
thức khi đã đạt được lãnh vực siêu-thế-tục sẽ vượt khỏi thế giới. Tâm thức đó sẽ
xem thể dạng thế-tục không hàm chứa một thực thể nào cả, không mang một cái ngã
nào hay một thực chất nào cả (trống không), và tất nhiên là nó sẽ không còn màng đến thể dạng thế-tục
ấy nữa. Các sinh linh sống trong lãnh vực siêu-thế-tục đó sẽ được phân chia thành
bốn cấp bậc khác nhau trên Con Đường và Quả mang lại từ Con Đường đó. Bốn cấp bậc
ấy là: 1) cấp bậc thuộc "Những Ai đã hội nhập vào được dòng chảy" (sotâpanna, còn gọi là "Dư lưu" tức là cấp bậc thánh
nhân thấp nhất và sẽ còn tái sinh); 2) cấp bậc thuộc "Những Ai chỉ còn quay lại một lần cuối
cùng" (sakadâgami - "Nhất lai", có nghĩa là còn quay lại thế gian
này thêm một lần nữa);
3) cấp bậc của "Những Ai không còn quay lại nữa" (anâgâmi - "Bất
lai"); 4) cấp bậc của những "Vị Viên Mãn hay
A-la-hán". Lãnh vực thuộc bốn thể loại chúng sinh Cao Quý đó còn gọi là thánh nhân (aryans) được mệnh danh là "siêu-thế-tục". "Siêu-thế-tục"
có nghĩa là thuộc vào "bên trên thế giới" và dùng để chỉ định một thể dạng tâm thức, không phải
để chỉ định thân xác. Thân xác có thể thuộc
vào bất cứ một nơi nào, chỉ cần là các điều kiện sinh sống đủ thích nghi (đủ để duy trì cho thân xác ấy, tức có nghĩa là một
người sống trong chùa, trong chốn đô hội hay trong một nơi hoang vắng đều có thể
trở thành một thánh nhân - aryan - trong lãnh vực siêu-thế-tục). Thuật ngữ
"siêu-thế-tục" chỉ đơn giản dùng để chỉ định một tâm thức vượt lên
trên thế giới. Thế giới bên dưới - chẳng hạn như địa ngục tức chốn đọa đày, hoặc
là những nơi mang đầy khổ đau, buồn phiền và nô lệ - thì đơn giản không phải là
thế giới của các vị thánh nhân (aryan).
Các
tiêu chuẩn dùng để phân biệt bốn cấp bậc trong lãnh vực siêu-thế-tục được căn cứ
vào các thứ nọc độc tâm thần đang được loại bỏ. Đức Phật phân chia các thứ nọc
độc còn tồn lưu trong bốn cấp bậc này thành ra mười thể loại và gọi đấy là những
thứ gông cùm (samyojana). Mưới thứ gông
cùm ấy xiềng xích con người và tất cả chúng sinh vào lãnh vực thế-tục của thế
giới. Khi nào có thể khởi sự nới lỏng được các thứ gông cùm đó để tự giải thoát
cho mình thì tâm thức cũng sẽ theo đó dần dần thoát ra khỏi cảnh giới của thế tục.
Khi nào tự giải thoát hoàn toàn được cảnh giới đó thì ta cũng sẽ "vượt lên
trên thế giới" và thường trú trong lãnh vực siêu-thế-tục.
Ô nhiễm
thứ nhất (gông cùm thứ nhất) trong số các thứ ô nhiễm tâm thần thật tinh tế đó là sự tin tưởng vào một cái ngã (sakkâya-ditthi): tức là ý nghĩ cho rằng thân
xác và tâm thức này là một "cái tôi". Đấy là một sự sai lầm, một sự
hiểu biết lệch lạc phát sinh từ sự bám víu vào ý nghĩ "tôi là thế này".
Do đó những người bình dị thường không đủ sức ý thức được bản chất đích thật của
thân xác và tâm thức là gì, nên họ không suy nghĩ gì cả và cứ cho rằng "mình
là như thế này". Đối với họ thì hết sức hiển nhiên là thân xác và tâm thức
tạo ra một "cái tôi" hay chính là "tôi". Cái ý nghĩ phát
sinh từ bản năng đó bám rễ quá sâu nên chẳng có ai tỏ ra nghi ngờ gì nữa. Thật
thế bản năng sinh tồn (hay tự bảo vệ lấy chính mình - instinct de
préservation / self preservation) là những gì giúp duy trì sự sống, tìm kiếm thức ăn và truyền giống. Thế
nhưng những gì mà chúng ta gọi là "sự tin tưởng vào cái ngã" phải được
hiểu theo ý nghĩa thô thiển nhất của nó, tức là một thứ nguyên nhân đưa đến sự ích
kỷ. Đấy chính là chiếc gông thứ nhất trong số tất cả các chiếc gông khác, do đó
phải cởi bỏ được nó trước khi nghĩ đến việc tháo bỏ các chiếc gông khác.
Chiếc
gông thứ hai là sự nghi ngờ (vicikicchâ), đấy là nguyên nhân mang lại
sự do dự và thiếu quả quyết. Hệ trọng hơn hết là sự nghi ngờ đối với việc tu tập
giúp đưa đến sự giải thoát khỏi khổ đau; sự nghi ngờ đó phát sinh từ sự thiếu
hiểu biết về hiệu quả mang lại từ phép tu tập nói đến trên đây: đấy là cách tự
hỏi là việc tu tập ấy có đúng là thích nghi với tôi hay không? Tôi có đủ khả năng
để thực hiện việc ấy hay không? Có phương pháp nào khác hơn giúp thực hiện được
việc ấy hay không? Phương pháp ấy có hiệu quả hay không? Có đúng là Đức Phật đã
đạt được Giác Ngộ hay không? Có đúng Đức Phật đã loại bỏ được khổ đau cho mình
hay không? Giáo huấn và phương pháp do Đức Phật đưa ra có thật sự loại trừ được
khổ đau hay không? Những người tu hành trong Tăng Đoàn có thật sự đạt được sự
giải thoát khỏi khổ đau hay không?
Cội rễ
của nghi ngờ chính là vô minh. Nếu như ta có thể kể chuyện những gì xảy ra trên
mặt đất cho một con cá sống dưới nước nghe thì nhất định là nó sẽ không tin gì
cả, họa chăng có tin thì nó cũng chỉ tin được một tí gì đó mà thôi. Đối với
chúng ta đang bị chìm đắm trong một thế giới sắc dục thì chúng ta nào có khác
gì với những con cá sống trong nước, vì thế nếu có ai nói với chúng ta về chuyện
vượt lên trên sắc dục và thế giới thì chúng ta cũng sẽ chẳng hiểu tí gì cả. Cứ
cho rằng chúng ta hiểu được một phần nhỏ nào đó đi nữa thì chúng ta lại đâm ra
nghi ngờ những thứ ấy. Cách suy nghĩ như thế thật hết sức tự nhiên. Thế nhưng
khi phải suy nghĩ hướng vào một cấp bậc cao hơn thì tất nhiên sẽ làm phát sinh
ra một tình huống khác: sự đối chọi giữa một cấp bậc suy nghĩ cao và một cấp bậc
suy nghĩ thấp hơn tất sẽ làm nảy sinh ra sự do dự và nghi ngờ (trong trường hợp ta đã quen suy nghĩ một cách bình
thường, bỗng dưng nếu bắt buộc phải suy nghĩ cao hơn thì tất nhiên sẽ khó cho
ta tránh khỏi sự hoang mang và do dự). Nếu năng lực của tâm thức còn kém thì cấp bậc thấp của
tư duy sẽ thắng thế. Sự nghi ngờ và do dự liên quan đến cái tốt luôn hiện hữu một
cách kinh niên và dai dẳng trong mỗi con người chúng ta từ lúc vừa sinh. Đối với
một người không được hưởng một sự giáo dục đầy đủ thì đấy là một căn bệnh rất
thông thường. Chúng ta cần phải sử dụng phép nội quán để tìm hiểu xem sự do dự
mang lại những hậu quả tiêu cực trầm trọng như thế nào, và cũng để thấy nó thường
xuyên xảy ra với các công việc và trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, thường
xuyên đến độ có thể khiến cho chúng ta nghi ngờ cả cái tốt, cả sự thật và biết đâu
kể cả sự giải thoát khỏi khổ đau.
Chiếc
gông thứ ba là dị đoan (sîlabbataparâmâsa) hay là sự bám víu vào
các nghi thức và lễ lạc phát sinh từ sự thiếu hiểu biết về nguồn gốc phi lý của
những thứ ấy. Nhất thiết đấy chỉ là một sự bám víu sai lầm vào những gì mà người
ta thường đem ra thực thi, liên quan đến các thứ giáo điều và nghi lễ. Hãy nêu
lên một thí dụ điển hình về sự dị đoan mà đôi khi còn có thể xảy ra cho cả những
người Phật Giáo nữa, đấy là sự tin tưởng vào ma thuật và lễ bái. Chủ tâm tìm kiếm
một sức mạnh mang tính cách thần bí và tâm linh hay các thứ sức mạnh hộ trì khác
là một hành động hoàn toàn sai lầm và phi lý. Xin nêu lên một thí dụ khác liên
quan đến việc thệ nguyện giữ giới - đấy thật ra là cách giúp phát huy một thái
độ đạo đức nhằm loại trừ các thứ ô nhiễm làm cho tâm thức bị u mê - thế nhưng có
người lại tin là việc ấy sẽ mang lại cho mình một sức mạnh kỳ diệu có thể tẩy xóa
được các thứ ô nhiễm. Thật ra thì đấy chỉ là cách để họ bám chặt vào các đối tượng,
chiếm giữ lấy chúng, và sau cùng thì sẽ gặt hái được những gì hoàn toàn trái
ngược lại với sự mong đợi của họ (giữ giới là cách giúp mình hành xử một
cách đúng đắn, không phải là một phương tiện giúp mang lại một sức mạnh thiêng
liêng). Hành động giữ
giới tự nó là một sự hoàn hảo, thế nhưng nếu ta không đủ sức để hiểu và cứ bám
vào nó một cách phi lý, xem nó như một thứ gì mầu nhiệm và thiêng liêng thì nó
sẽ trở thành một thứ dị đoan không hơn không kém. Cũng thế nếu ta nguyện giữ giới
với hy vọng được tái sinh dưới thể dạng thiên nhân chẳng hạn, thì nhất định đấy
chỉ là một hình thức bám víu vào các nghi thức và lễ lạc, đi ngược lại với giáo
lý nhà Phật. Những thứ tin tưởng đại loại như thế sẽ làm ô nhiễm cách hành xử đúng
ra rất là đạo đức trên tất cả mọi phương diện. Mục đích của giới luật Phật Giáo
là loại bỏ những thứ ô nhiễm thô thiển trên thân xác (các hành động sai trái) và ngôn từ, hầu thiết đặt một nền móng giúp thực hiện
sự tập trung và quán thấy sâu xa - thế nhưng tuyệt nhiên không phải đấy là cách
giúp tái sinh vào cõi thiên đường! Động cơ thúc đẩy hoàn toàn sai lầm đó chỉ làm
ô nhiễm và vấy bẩn cả giá trị đạo đức của chính mình dưới hình thức của sự bám
víu và sắc dục, và cả các khái niệm lầm lẫn khác. Nếu thực thi bố thí, giữ gìn
giới luật đạo đức, hoặc thiền định mà còn mang các ý nghĩ lệch lạc đi ra ngoài
mục tiêu đích đúng thật của những thứ ấy thì tất nhiên đấy chỉ là tình trạng đi
lạc hướng trên Con Đường mà Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng ta.
Phải
ý thức được là sự tu tập Phật Giáo tự nó cũng có thể biến thành dị đoan nếu nó
kết hợp với những thứ hiểu biết lệch lạc và với sự ước mong đạt được một sức mạnh
thần bí. Thật vậy những thứ lặt vặt như thế vẫn thường thu hút được phần đông
chúng ta, khiến cho chúng ta cũng cứ muốn thử xem ra sao, thí dụ như những bài
hát mang tính cách nghi lễ, các hành động (có tính cách
bày vẽ và ngoạn mục)
để được mọi người khen ngợi, và vô số các thứ khác nữa đại loại như thế... Nếu
nghi lễ được tổ chức bằng cách dâng cơm và bánh ngọt trước ảnh tượng của Đức Phật
và nghĩ rằng "hương linh" của Đức Phật sẽ thụ hưởng những thứ ấy, thì
chắc chắn một trăm phần trăm là tác động mang lại sẽ trái ngược hẳn với những gì
mà mình mong đợi (thay vì phải phát huy trí tuệ thì đấy chỉ
là cách làm gia tăng thêm tình trạng vô minh, mê tín và dị đoan của mình). Thái độ đó đi ngược lại với mục tiêu đích thật, thế
nhưng lại rất phổ biến trong các giới Phật Giáo, thật quả đấy là những gì hết sức
là phi lý. Chính vì thế mà sự tu tập nguyên thủy thật đẹp và đúng đắn đã bị một
số người vì vô minh đã làm cho nó bị ô nhiễm. Tóm lại thì đấy là những gì gọi là
dị đoan.
Như
chúng ta đã thấy, ô nhiễm bắt nguồn từ vô minh và từ sự hiểu biết sai lầm về mọi
sự vật. Hầu hết chúng ta đều chất chứa những thứ tin tưởng mang tính cách cá
nhân về các thứ sức mạnh thần bí, thật ra thì chỉ vì chúng ta không may học hỏi
được những gì không đúng và bị ảnh hưởng bởi một môi trường sai lầm. Có lẽ
trong giai đoạn này cũng không nên khai triển chi tiết hơn về vấn đề này vì có
thể là vô ích. Thật vậy, những chuyện như thế dù có thể làm cho chúng ta khó chịu,
thế nhưng mỗi người trong chúng ta cũng nên tự xét lấy mình về vấn đề này bằng
cách nhìn vào những gì được trình bày trên đây.
Khi một
người nào đó đã loại bỏ được ba thứ chướng ngại - tin vào một "cái tôi",
sự nghi ngờ và dị đoan - thì có thể bảo rằng người ấy đã đạt được cấp bậc thứ
nhất trong lãnh vực siêu-thế-tục, tức có nghĩa là người ấy đã trở thành
"Người đang bước vào dòng chảy". Nếu muốn từ bỏ hoàn toàn ba thứ gông
cùm hay "nọc độc tâm thần" trên đây thì thật ra cũng không phải khó
khăn gì cho lắm, vì đấy chỉ là những thuộc tính thô sơ nhất phát sinh từ các thời
đại bán khai mà con người lúc đó chưa được tiến hóa lắm. Bất cứ ai cố gắng tìm
hiểu và thăng tiến một cách đúng đắn đều hiểu rằng phải loại bỏ ba thứ chướng
ngại đó để giúp mình trở thành một vị thánh nhân (aryan); ngược lại, nếu đấy là một người còn vướng mắc trong vô minh
và ảo giác, và nếu sử dụng một thuật ngữ thật chính xác để chỉ định người ấy thì
có thể bảo người ấy là một người thuộc vào
thế giới (pythujjana), tức là một
người mà con mắt nội tâm bị một tấm dải bịt mắt quấn thật chặt.
Khi
người nào tẩy xóa được các thứ ô nhiễm trên đây thì tâm thức của người ấy sẽ cởi
bỏ được các gông cùm của thế gian. Cá thể ấy sẽ được giải thoát khỏi vô minh và
ảo giác, chính đấy là những gì tỏa bóng che lấp cả sự thật và trói buộc tâm thức
mình vào thế giới. Loại bỏ được chúng tức là bỏ lại phía sau ba thứ gông cùm và
ba dải buộc mắt, hầu tự giải thoát cho mình ra khỏi sự kiềm tỏa của chúng để vượt
lên trên thế giới và ra bên ngoài thế giới, giúp mình bước vào cấp bậc thứ nhất
của lãnh vực siêu-thế-tục. Người ta bảo rằng một người như thế là một thánh nhân
(aryan) thuộc vào cấp bậc thứ nhất, một người vừa "bước vào dòng chảy",
tức là lần đầu hội nhập vào con sông chảy xuôi về hướng Niết-bàn. Điều đó không
có nghĩa là đạt được cấp bậc ấy thì đương nhiên sẽ đạt đến Niết-bàn vào một ngày
nào đó trong tương lai. Người ấy chỉ mới đạt được con sông chảy về hướng Niết-bàn,
nhưng chưa phải là Niết-bàn, thế nhưng dòng nước ấy là một con sông chảy thẳng
vào Niết-bàn, xuôi dòng về hướng Niết-bàn, tương tự một dòng nước của một con sông
đổ vào biển cả. Dù sao thì cũng phải còn nhiều thời gian cho một tâm thức sau khi đã hội nhập được vào
"dòng chảy" có thể đến được cõi Niết-bàn vào một ngày nào đó (xin chú ý cách dùng chữ trong câu này: tâm thức đến được cõi Niết-bàn, không phải là một con người đến được với Niết-bàn).
Bước
được vào cấp bậc thứ hai của lãnh vực siêu-thế-tục chẳng những chỉ có nghĩa là đã
loại bỏ được ba thứ gông cùm (cái ngã, sự nghi ngờ và dị đoan) như đã được trình bày trên đây, mà còn phải làm giảm
bớt thêm một số thể dạng bám víu, thèm muốn và vô minh, giảm xuống đến độ có thể
giúp cho tâm thức vượt lên cao hơn nữa và nó chỉ còn bám víu rất ít vào sắc dục.
Theo truyền thống thì người ta bảo rằng một người như thế chỉ còn quay lại thế
giới này thêm một lần nữa mà thôi, vì thế mà người ta gọi đấy là "Người chỉ
quay lại thêm một lần" bởi vì nơi người ấy chỉ còn rơi rớt lại một chút dấu
vết thật nhỏ của sự bám víu vào thế giới này. Nếu người ấy phải quay trở lại thế
giới giác cảm của chúng sinh dưới thể dạng con người thì đấy cũng chỉ là một lần
sau cùng, bởi vì sự bám víu, ham muốn và vô minh dù vẫn còn đấy thế nhưng đã được
giảm thiểu rất nhiều.
Cấp bậc
thứ ba là cấp bậc của những "Người không còn quay lại nữa". Vào cấp bậc
này thì ngoài một số ô nhiễm tâm thần mà vị thánh nhân (aryan) đã loại bỏ được hầu giúp họ trở thành "Người chỉ quay lại
thêm một lần" trong cấp bậc trước đây thì còn có thêm hai thứ gông cùm khác
nữa cần phải loại bỏ, đấy là gôm cùm thứ tư và gông cùm thứ năm. Gông cùm thứ tư
là sự ham muốn giác cảm, và gông cùm thứ năm là sự tiêu cực (đau buồn, phiền não - négativité / ill will). Đối với "Người bước được vào dòng chảy" cũng
như "Người chỉ còn quay lại một lần" thì cả hai đều chưa hoàn toàn loại
bỏ được sự ham muốn sắc dục: một vài vết tích nhỏ của sự thích thú trước các đối
tượng quyến rũ vẫn còn lưu lại nơi họ, dù cho họ không còn tin vào cái ngã nữa
và cũng đã loại bỏ được sự nghi ngờ và dị đoan. Tuy nhiên họ vẫn chưa hội đủ khả
năng để hoàn toàn từ bỏ được sự bám víu vào những gì mang tính cách lôi cuốn của
giác cảm, và một vài tàn tích vẫn còn sót lại. Trái lại, đối với một vị thánh
nhân (aryan) thuộc vào cấp bậc thứ
ba, tức không còn quay lại nữa, thì người này đã hoàn toàn loại bỏ được các thứ
ấy, tuyệt nhiên không còn một dấu vết nào lưu lại. Đối với các thứ nọc độc mang
lại sự tiêu cực, gồm tất cả các thứ cảm tính của sự giận dữ và oán hận, thì người
này cũng đã tẩy xóa được gần hết trước đây khi còn trong cấp bậc của "Người
chỉ còn quay lại một lần", khi bước sang cấp bậc thứ ba của "Người không
còn quay lại nữa" thì các tàn tích còn tồn lưu ấy cũng sẽ được tẩy xóa hết.
Tóm lại là người này đã loại trừ được sự thèm muốn sắc dục và cả sự tiêu cực.
Sự ham muốn nhục dục hay sự bám víu vào giác
cảm đã được trình bày trong chương thứ IV. Đấy là một thứ u mê dai dẳng, ăn
sâu vào tâm thức, tương tự như là một thành phần tạo ra chính tâm thức. Thật hết
sức khó cho một người bình thường hiểu được những thứ ấy là gì để mà loại bỏ nó.
Tất cả, tuyệt đối tất cả, đều có thể trở thành đối tượng của sự ham muốn: màu sắc,
hình tướng, âm thanh, mùi, vị, và các vật thể sờ mó được thuộc đủ thể loại, tất
cả đều là đối tượng của giác cảm (kâma -
tham dục, ái dục, sắc dục). Thể dạng bám víu của tâm thức sẽ hiện ra dưới hình
thức của sự thỏa mãn và chính đấy là sự ham muốn sắc dục (kâma-râga
- désir sensuel / sensual desire / dục lạc. Sự
ham muốn nhục dục phát lộ từ tất cả sáu cơ quan giác cảm).
Những
gì mà chúng ta gọi là sự tiêu cực thì
đấy có nghĩa là phản ứng của tâm thức khi nó cảm thấy một sự bất toại nguyện.
Khi nào có sự toại nguyện thì sẽ có sự thèm muốn sắc dục dục; khi nào có sự bất
toại nguyện thì sẽ có sự tiêu cực xảy ra. Tâm thức của hầu hết tất cả mọi con người
đều lệ thuộc vào hai thể dạng ấy. Ta cũng có thể phát lộ cảm tính tiêu cực cả đối
với các vật thể bất động, và nguy hiểm hơn nữa là ta cũng có thể trở nên bất mãn
với những gì mà chính ta sáng tạo ra, và đấy là những thứ được hình thành từ trong
tâm thức của ta. Khi ta cảm thấy giận dữ và hận thù thì đấy có nghĩa là sự tiêu
cực đã được đẩy đi quá xa. Tất cả các vị thánh nhân (aryan) từ cấp bậc thấp cho
đến cấp bậc của những "Người không còn quay lại nữa", đều đã loại bỏ
được những thứ ấy với mức độ tương quan với thể dạng của mình. Mức độ tiêu cực
mà vị thánh nhân (aryan) trong cấp bậc
thứ ba phải loại bỏ chỉ còn là một thứ phản ứng thật tinh tế hiện ra trong tâm
thức, tinh tế đến độ rất ít khi thoáng hiện ra bên ngoài. Nhất thiết đấy chỉ là
một sự bấn loạn nội tâm và hoàn toàn không hiện ra trên nét mặt, sự bấn loạn ấy
chỉ hiện ra bên trong như một sự bất toại nguyện, một sự bực dọc hay khó chịu
trước một người nào đó hay một thứ gì đó không đáp ứng được sự mong đợi của
mình. Hãy hình dung ra một con người đã hoàn toàn loại bỏ được sự tiêu cực thì
ta cũng sẽ hiểu ngay đấy là một con người ngoại lệ như thế nào, và đáng kính
như thế nào.
Năm
thứ "gông cùm" mà chúng ta vừa trình bày trên đây đã được Đức Phật
xem là những gì phải loại bỏ trước tiên: tin vào một cái ngã, sự nghi ngờ, dị
đoan, sự thèm muốn sắc dục, và sự tiêu cực. Các vị thánh nhân (aryan) trong cấp bậc thứ ba đều loại bỏ
hoàn toàn được tất cả những thứ này. Vì không còn vướng mắc trong sự thèm muốn sắc
dục nữa nên các vị thánh nhân (aryan)
trong cấp bậc thứ ba sẽ không còn bao giờ quay lại dưới thể dạng hiện hữu bằng
giác cảm nữa, do đó tên gọi của những vị này là những "Người không còn
quay lại nữa". Duy nhất những gì còn tồn lưu nơi họ là sự chuyển động hướng
về phía trước, đưa đến thể dạng A-la-hán và cõi Niết-bàn, sự tồn lưu ấy thật tối
thượng và không liên quan gì cả với sắc dục. Tóm lại đối với năm thứ chướng ngại
thì chỉ có vị A-la-hán thuộc cấp thánh nhân (aryan) thứ tư là có thể loại trừ hoàn toàn mà thôi.
Gông cùm
thứ sáu là sự bám víu vào những thứ thú vị liên quan đến các thể dạng của sự tập
trung hướng vào hình tướng (rûpa-râga).
Các vị thánh nhân (aryan) thuộc vào ba cấp bậc đầu tiên chưa đủ khả năng loại bỏ
được sự bám víu vào sự thích thú và tĩnh lặng liên quan đến sự tập trung thật sâu
về hình tướng, và họ chỉ có thể loại bỏ được hết những thứ này khi nào họ đạt
được cấp bậc cuối cùng là cấp bậc của vị A-la-hán. Thể dạng tập trung hoàn hảo
hàm chứa một hương vị ngất ngây mà người ta có thể mô tả như là một thứ tiền vị
trước khi đạt được Niết-bàn. Dù không phải là Niết-bàn đúng thật thế nhưng nó hàm
chứa một hương vị nào đó. Trong những lúc mà sự tập trung trở nên thật hoàn hảo
thì các thứ ô nhiễm sẽ ngủ yên. Chúng không biến mất và sẽ hiển hiện trở lại
khi nào sự tập trung không còn giữ được nữa. Thật thế khi nào chúng còn ngủ yên
thì tâm thức sẽ trở nên trống không, trong sáng, tự do và cảm nhận được hương vị
của Niết-bàn. Chính vì thế mà thể dạng ấy có thể biến thành một thứ nguyên nhân
tạo ra sự bám víu.
Ô nhiễm
tinh tế thứ bảy là sự bám víu vào các điều thú vị liên hệ đến sự tập trung vào
các đối tượng khác hơn là hình tướng (arûpa-râga
- râga là thèm muốn, rûpa là hình tướng,
arûpa là phi-hình-tướng).
Sự ô nhiễm này cũng khá tương tự với thứ gông cùm thứ sáu thế nhưng thuộc vào một
cấp bậc tinh tế hơn và nhẹ hơn. Sự tập trung vào một vật thể, chẳng hạn như
không gian hay sự trống không, sẽ làm phát sinh ra một sự tĩnh lặng và thanh thản
sâu xa hơn so với sự tập trung vào một hình tướng, do đó cũng dễ khiến người hành
thiền bám víu hơn. Một vị A-la-hán đích thật không bao giờ còn để mình bị mê hoặc
bởi thể dạng cảm nhận thú vị đó, hoặc dù bất cứ thứ gì khác, bởi vì vị này sẽ ý
thức được ngay tính cách vô thường, sự bất toại nguyện và sự vắng mặt của cái
ngã của tất cả mọi sự cảm nhận. Có một số những người tu hành ẩn dật và những
người tu hành thần bí sống trong rừng để luyện tập phép tập trung, thế nhưng họ
không hề ý thức được sự nguy hiểm (sự bám víu) ẩn nấp bên dưới các thể dạng cực lạc đó. Họ bị những
thứ ấy mê hoặc và bám víu vào hương vị do chúng mang lại, đấy cũng chẳng khác gì
những người chưa thành thục bám víu vào các đối tượng giác cảm thế thôi. Chính vì lý do đó mà Đức Phật đã sử dụng cùng
một chữ "thèm muốn" trong cả hai trường hợp. Nếu bạn suy nghĩ kỹ về
những gì vừa được trình bày thì sẽ hiểu ngay được ý nghĩa và rồi bạn sẽ vô cùng
ngưỡng mộ và kính phục các chúng sinh mà người ta gọi là các vị thánh nhân (aryan).
Gông
cùm thứ tám trói buộc con người vào thế giới là một thứ cảm tính ưu việt (ưu thế, trội hơn người khác / awareness of
superiority) hoặc tự ti (thấp kém,
mặc cảm / awareness of inferiority). Đấy là một thứ ảo giác cho rằng
mình thuộc vào một cấp bậc nào đó (cao hơn hay thấp hơn) so với người
khác. Thí dụ như nghĩ rằng: "Tôi không giỏi bằng hắn / Tôi giỏi ngang hàng
với hắn / Tôi giỏi hơn hay cao siêu hơn hắn", tức có nghĩa là cảm thấy mình
thấp kém hơn, ngang hàng hay trội hơn người khác. Phải cẩn thận, đấy không phải
là một cảm tính kiêu căng hay tự phụ gì cả, thế nhưng thật hết sức khó khăn để
có thể tránh khỏi việc tự so sánh mình với người khác (một phản ứng tự nhiên). Thứ gông
cùm này được xếp vào hàng thứ tám, rất có thể là vì lý do rất khó loại bỏ được nó.
Chỉ có các vị thánh nhân (aryan)
trong cấp bậc cao nhất mới trừ khử được nó (có thể xem
cảm tính tự nhiên về sự so sánh giữa mình và người khác là một sự biểu lộ vô
cùng tinh tế và tự động của cái ngã hay "cái tôi"). So sánh tức
là một hình thức của sự bám víu. Khi nào tâm thức còn quan tâm đến cái tốt, cái
xấu, còn ý thức về sự thấp kém, ưu việt hay ngang hàng so với người khác thì những
thứ ấy sẽ còn làm cho chính nó (tức là tâm thức) bị bấn loạn.
Chỉ khi nào tâm thức vượt lên được cả cái tốt lẫn cái xấu thì khi ấy những ý
nghĩ trên đây mới tự động biến mất được, nếu không thì thể dạng phúc hạnh và sự
tĩnh lặng không thể nào hiển hiện ra với tâm thức được.
Gông cùm thứ chín là sự dao động (uddhacca - phóng dật), đấy là sự dao động của tâm thức,
sự xao lãng, thiếu sự an bình và yên lặng. Thứ cảm tính đó phát sinh khi nào có
một cái gì đó hấp dẫn xảy ra. Tất cả chúng ta đều mang những sự thèm muốn dai dẳng,
nhất là sự thèm muốn được có, được như thế, không muốn được có, không muốn được
như thế này hay thế nọ. Nếu có một thứ gì truyền đến mắt, tai, mũi, lưỡi hay thân
xác thì nó sẽ tìm thấy ngay một sự tương ứng với một trong những xu hướng có sẵn
của ta, và rất có thể tâm thức nhân đó cũng sẽ tạo ra ngay một phản ứng đối với
nó, tức là chấp nhận hay chống lại, và người ta gọi đấy là một sự vụ lợi (intérêt / interest). Nếu ta nhận
thấy đấy là một thứ gì mới lạ hay lạ lùng thì nhất định một sự bối rối sẽ xảy
ra, có nghĩa là một thứ hình thức tò mò nào đó vụt phát hiện, đấy chính là vì lý
do lúc nào cũng có thể xảy ra những thứ mà ta thèm muốn hoặc những thứ mà ta e
sợ, cho nên khiến ta phải luôn dè dặt là như thế (tức là tạo
ra cho ta sự dao động thường xuyên). Đối với
những người bình thường thì tâm thức họ không đủ khả năng để cưỡng lại các loại
phản ứng tự nhiên, họ không thể nào tự ngăn chận không cho phép mình quan tâm đến
tất cả mọi thứ đang hiển hiện ra. Nếu một đối tượng hiện ra và trùng hợp với một
trong những thứ ham muốn sẵn có của ta thì sẽ rất khó cho ta cưỡng lại nó, và
ta sẽ quan tâm đến nó đến một mức độ có thể khiến cho ta tự buộc mình vào với nó,
ta cảm thấy vui mừng đến độ quên cả chính mình mà chỉ thấy có nó. Ngược lại nếu
đấy là một vật thể mà ta không muốn thì tâm thức sẽ cảm thấy thờ ơ và sự ham muốn
chấm dứt ngay. Đấy là bản chất của sự dao động.
Trong ba cấp bậc đầu tiên, vị thánh
nhân (aryan) vẫn còn phát lộ sự tò mò
(hiếu kỳ, ham hiểu biết), thế nhưng
đối với vị A-la-hán thì sự tò mò ấy không còn nữa. Tâm thức của vị A-la-hán đã
loại bỏ được bất cứ thứ gì: mọi sự sợ hãi, mọi hận thù, mọi sự lo buồn, ưu tư,
nghi kỵ, ngờ vực và tất cả mọi sự ham muốn muốn được hiểu biết và muốn được
nhìn thấy các vật thể. Tâm thức của vị ấy hoàn toàn được tự do. Không có gì có
thể khích động được nó, thu hút được nó, hoặc khiến cho nó phải phát lộ sự tò mò,
đơn giản chỉ vì nó đã gạt bỏ được tính thiên vị (partiality
- có thể hiểu như là một sự diễn đạt tự nhiên của tâm thức trước mọi sự vật). Nên chú ý
là sự hiện hữu hay sự phát sinh của thể dạng dao động trong bất cứ bối cảnh nào
đều là hậu quả do một hình thức thèm muốn nào đó mang lại (dù đấy là sự ghét bỏ hay ưa thích), kể cả sự thèm
muốn muốn được hiểu biết. Khi nào loại bỏ được sự thèm muốn và cảm nhận được vô
thường, sự vô ích (sự hão huyền, hư ảo, vô tích sự - inanité
/ worthlessness) và vô-cá-tính (không mang
tính cách cá thể - non-personnalité / nonselfhood) của bất cứ
sự vật nào, không còn bất cứ gì tỏ ra đáng để chiếm hữu, vì thế nên không còn có
gì đáng để phải tò mò. Nếu sấm sét có giáng xuống chân của một vị A-la-hán thì
vị ấy cũng không hay biết gì cả bởi vì vị ấy không còn biết sợ cái chết cũng không
ham muốn được sống, hay bất cứ thứ gì khác. Ngay cả trường hợp có một thứ gì
nguy hiểm xảy đến hoặc có một khám phá lớn xảy ra trên thế giới thì người
A-la-hán cũng không tỏ lộ một chút tò mò nào bởi vì tất cả những thứ ấy không
mang một ý nghĩa nào cả đối với vị ấy. Vị ấy không còn quan tâm đến là các thứ ấy
sẽ mang lại cho mình một cái gì cả bởi vì không có bất cứ thứ gì có thể cám dỗ
được vị ấy hay gợi lên một sự tò mò nào cả. Tâm thức của vị ấy đạt được một sự
tinh khiết và tĩnh lặng mà những người bình dị như chúng ta không thể nào hình
dung ra được.
Gông cùm thứ mười và cũng là gông cùm
cuối cùng là vô minh. Vô minh trong
trường hợp này sẽ bao gồm tất cả các thứ ô nhiễm mà trước đây chúng ta chưa có dịp
đề cập đến. Thuật ngữ "vô minh" chỉ định một thể dạng vắng mặt của sự
hiểu biết, và trong trường hợp này thì "sự hiểu biết" có nghĩa là sự
"thấu triệt đích thật" hay "sự hiểu biết đúng". Tất nhiên là
bất cứ người nào nếu muốn hiện hữu cũng cần phải có một sự hiểu biết, thế nhưng
nếu sự hiểu biết ấy là sai, thì người ấy cũng không khá hơn gì một người không-hiểu-biết.
Hầu hết tất cả mọi người đều phải chịu đựng một sự vô minh dai dẳng tức là một
sự hiểu biết sai lầm; gần như hầu hết chúng ta đều chìm sâu trong tấm màn tăm tối
của vô minh. Các câu hỏi quan trọng nhất cho con người có thể là: "Khổ đau
đích thật là gì? Nguyên nhân đích thật nào đã đưa đến khổ đau? Sự giải thoát đích
thật khỏi khổ đau là gì? Và phương pháp đích thật nào giúp đạt được sự giải thoát
khỏi khổ đau?" (một cách trình bày khác của Tứ Diệu Đế). Những ai đạt
được một sự hiểu biết đích thật thì sẽ thoát khỏi vô minh, có nghĩa là người ấy
là một người giác ngộ. Toàn bộ sự hiểu biết của nhân loại quả thật là vô tận thế
nhưng Đức Phật đã trịnh trọng tuyên bố rằng hầu hết những sự hiểu biết ấy không
có gì là thiết thực cả. Sự Giác Ngộ của Đức Phật trái lại chỉ nêu lên những gì
cần phải hiểu biết. Đức Phật hiểu biết tất cả những gì cần phải hiểu biết. Chữ
"thông suốt" (toàn năng - omniscient / all-knowing) có nghĩa là
biết những gì cần phải biết và loại ra những gì không thiết yếu.
Vì vô minh nên nhiều người nhầm lẫn
khổ đau với thích thú, và chính vì thế mà họ cứ tiếp tục lặn ngụp trong đại dương
của khổ đau. Thay vì cố gắng tìm cách biến đổi cảnh huống của mình bằng các phương
tiện thích nghi thì họ lại tự đánh lừa mình bằng cách đổ lỗi cho ma quỷ, hay các
thiên nhân trên trời hay bất cứ thứ gì khác gây ra khổ đau và những điều bất hạnh
cho họ. Cầu khẩn thần linh ma quỷ hay các thiên nhân trên trời là một sự biểu lộ
thuộc vào một cấp bậc thấp kém nhất của vô minh. Nếu muốn loại bỏ hoàn toàn khổ
đau thì chỉ có cách là loại bỏ sự ham muốn các thứ dục vọng, đấy là nguyên nhân
trực tiếp mang lại khổ đau. Nếu xem thể dạng phúc hạnh phát sinh từ sự tĩnh lặng
hay từ thể dạng phi-ý-thức do sự tập trung mang lại như là sự tắt nghỉ của khổ đau
thì đấy là hoàn toàn sai. Ý nghĩ ấy rất phổ biến từ thời kỳ của Đức Phật và ngày
nay vẫn còn tiếp tục. Một số học phái tư tưởng (schools of
thought) còn xem sắc dục như là một thứ dụng cụ để trừ khử khổ
đau, đến độ một số giáo phái chủ trương các phép tu tập đáng xấu hổ và tục tằn ấy
đã phát sinh ngay cả trong chốn chùa chiền (thật ra
trong lịch sử Phật Giáo cũng có một vài vị thầy không được hoàn toàn chân chính
và cũng có một vài chi phái hiếm hoi không giữ được giới luật đoạn dục, tức chủ
trương người tu hành có thể lập gia đình, kể cả trường hợp một số học phái xem
hình ảnh dục tính như một đối tượng hay một phương tiện thiền định, thế nhưng tất
cả đều là những ngoại lệ. Dầu sao thì cũng không thể nào không bày tỏ sự thán
phục và ngưỡng mộ trước sự bộc trực và thẳng thắn của vị đại sư Buddhadasa). Những người
ấy tin một cách quả quyết rằng sắc dục là một nhân tố thiết yếu cho sự sống, một
thứ thực phẩm tối cần thiết. Bốn thứ nhu cầu là thực phẩm, quần áo, nhà ở và
thuốc men đối với họ chưa đủ hay sao mà còn ghép thêm vào đấy sắc dục nữa.
Những ai không hề biết đến Con Đường
đưa đến sự tắt nghỉ của khổ đau là gì sẽ rất dễ phạm vào những hành động sai trái,
bởi vì họ chỉ được thúc đẩy duy nhất bởi sự ham muốn, và nương tựa một cách thật
ngây thơ vào những vật thể vật chất hoặc vào thần linh ma quỷ và các thiên nhân
trên trời (sự tin tưởng dị đoan). Những người
như thế, và cũng có thể đấy là những người Phật Giáo từ lúc mới sinh, tất cả đều
có thể đẩy sự sai lầm quá xa, lý do thật là đơn giản đấy chỉ vì sức mạnh của vô
minh ngăn chận không cho họ hiểu được là Con Đường Của Tám Sự Thật Cao Quý (Bát Chánh Đạo) cũng đủ để
giúp họ loại bỏ được khổ đau. Họ thích thắp hương và nến rồi xướng lên những lời
ước nguyện hướng vào các nhân vật được xem là siêu nhiên.
Ai mà lại chẳng muốn đạt được sự hiểu
biết, thế nhưng nếu sự "hiểu biết" đạt được là một thứ hiểu biết sai
lầm thì nếu càng hiểu biết thì lại càng lầm lẫn nhiều hơn, và nếu sự hiểu biết
trở nên quá nhiều thì sẽ hóa ra sự mù quáng. Chúng ta nên cẩn thận đối với chữ
"Giác Ngộ" (bodhi - illumination / enlightenment - rọi
sáng, chiếu sáng). Chữ "ánh sáng" ở đây cũng
có thể có nghĩa là một tia loé phát lên từ vô minh làm cho mù lòa, đánh lừa mắt
mình và mang lại cho mình một sự tự tin quá đáng. Bị chóa mắt bởi vô minh, ta
không còn suy nghĩ đúng đắn được nữa và do đó sẽ không còn hội đủ được khả năng
để đánh bại vô minh. Ta đánh mất tất cả ngày giờ vào những việc tầm phào, vào
những hành động vô bổ, không xứng đáng để quan tâm. Ta vui thích với sắc dục cứ
như thể đấy là một thứ gì thật tốt đẹp, thật thiết yếu cho con người, mà chúng
ta cần phải thụ hưởng trước khi chết. Chúng ta viện cớ sở dĩ mình hành động như
thế là vì mỗi người có quyền có những lý tưởng khác nhau. Hy vọng được tái sinh
lên thiên đường chẳng qua cũng chỉ vì lý do sắc dục mà thôi. Tất cả những sự bám
víu, nhất là đối với sắc dục, đều phát sinh từ vô minh khiến cho tâm thức bị tắc
nghẻn và các lối thoát bị bít kín. Kinh sách thường ví vô minh như một chiếc vỏ
sò chụp lên thế gian, không cho chúng ta sinh nhìn thấy được ánh sáng.
Đức Phật xếp vô minh vào hàng thứ mười
trong danh sách mười thứ gông cùm. Khi một người đã trở thành A-la-hán, tức cấp
bậc cao nhất của các thánh nhân (aryan)
thì người ấy cũng loại bỏ được hoàn toàn năm thứ gông cùm hay nọc độc tâm thần
cuối cùng. Người ấy loại bỏ được sự ham muốn các hình tướng, sự ham muốn các đối
tượng khác hơn hình tướng, sự so sánh mình với người khác, sự dao động và vô
minh (tất cả là năm thứ gông cùm). Bốn cấp bậc
thánh nhân - gồm những "Người bước
vào được dòng chảy", những "Người chỉ còn quay lại một lần", những
"Người không còn bao giờ quay lại nữa" và các vị "A-la-hán"
- tất cả đều thuộc vào lãnh vực siêu-thế-tục. Lãnh vực này lại được phân chia
thành chín thể dạng. Hai thể dạng thứ nhất thuộc cấp bậc của của những
"Người bước vào dòng chảy" vì người này còn phải tiếp tục loại trừ những
thứ ô nhiễm gọi là "Con Đường giúp
đưa vào dòng chảy", và khi nào trừ khử được các thứ ô nhiễm ấy thì sẽ đạt
được "Thể dạng quả đưa vào dòng chảy".
Cũng tương tự như thế, hai thể dạng "Con Đường" và "quả" của
"Người chỉ còn quay lại một lần", hai thể dạng "Con Đường"
và "quả" của "Người không còn bao giờ quay lại nữa", và sau
cùng là hai thể dạng "Con Đường" và "quả" của bậc
"A-la-hán". Bốn cặp song hành đó nếu đem cộng thêm vào đó thể dạng Niết-bàn
thì sẽ trở thành tất cả là chín thể dạng của lãnh vực siêu-thế-tục. Khi một người
đã tiếp xúc được với lãnh vực này sẽ nhận thấy khổ đau của mình dần dần suy giảm
đi tương ứng với cấp bậc của mình, cho đến lúc hoàn toàn được giải thoát. Khi nào
người ấy cảm nhận được bản chất đích thật của mọi sự vật bằng một sự trong sáng
thật hoàn hảo khiến cho mình không còn phát lộ một sự ham muốn nào đối với bất
cứ một thứ gì nữa, thì có nghĩa là người ấy đã đạt được lãnh vực siêu-thế-tục:
tức tâm thức của người ấy vượt lên trên thế giới. Sau khi đã hoàn toàn và tuyệt
đối loại bỏ được tất cả những thứ ô nhiễm tâm thần thì tâm thức của người ấy cũng
sẽ được giải thoát vĩnh viễn khỏi tất cả mọi thứ vật thể của thế giới mà trước đây
mình từng yêu thích hay ghét bỏ chúng.
Niết-bàn là một thể dạng không thể
so sánh được với bất cứ thứ gì, khác với tất cả các điều kiện con người. Thật
ra thì nó cũng phủ định ngay cả các điều kiện con người. Nếu ta nhìn vào tất cả
các đặc tính của các điều kiện con người và của sự hiện hữu dưới hình thức hiện
tượng và đem chúng ra để xóa bỏ thì ta sẽ có được Niết-bàn (một cách định nghĩa thật đơn giản về Niết-bàn, thế nhưng
hết sức tuyệt vời trên tất cả mọi khía cạnh: khi xóa bỏ
được tất cả các đặc tính của thế giới thì thế giới sẽ trở thành Niết-bàn. Có thể xem đấy là một công án cho Thiền học hay một
chủ đề giúp cho phép thiền định phân giải).
Niết-bàn nằm ra bên ngoài ranh giới
của không gian và thời gian. Nó duy nhất và chẳng giống với bất cứ thứ gì trong
thế gian này: đấy là sự dập tắt của điều kiện con người (con người vẫn "còn đó" chỉ có các điều kiện
tạo ra nó - dưới hình thức hiện tượng - là phải dập tắt, tương tự như dập tắt ngọn lửa
tượng trưng cho những gì đang thiêu đốt con người). Đức Phật đã
sử dụng phép ẩn dụ (métaphor) để gọi đấy
là "thế giới mà nơi đó tất cả những gì tạo tác bằng điều kiện (trong bản dịch sang tiếng Pháp thì dùng chữ tạm bợ) đều chấm dứt"
(sankhârâ-samatho - các chữ này rất quan trọng: chữa sankhârâ
hay samkhârâ có nghĩa là duy ý tức là tạo ra - fabricating - bằng tâm ý, kinh
sách tiếng Việt dịch là hành tức là một hành động, thế nhưng phải hiểu đấy là một
hành động tâm thần; chữ samatho có nghĩa là sự yên lặng, lắng xuống, sự tắt nghỉ
- quieting, calming). Đấy có nghĩa là một thể dạng tự
do, tự do ở đây có nghĩa là giải thoát được khỏi những thứ gông cùm. Thể dạng ấy
cũng tương tự như những gì mang lại từ sự chấm dứt của đau buồn, của mọi sự
tranh đấu, của các vết thương và sự bất an, dù chúng phát sinh từ bất cứ một
nguyên nhân nào. Đấy là bản chất của lãnh vực siêu-thế-tục, một thể dạng tối hậu,
và đấy cũng là mục đích, là điểm đến cuối cùng của người Phật Giáo, là quả sau
cùng mà sự tu tập mang lại cho họ.
LỜI KẾT
Trên đây là các nguyên lý Phật Giáo
được đem ra giải thích thật quy củ. Đấy là những gì cho thấy Phật Giáo là một
phép luyện tập thực dụng mang một cấu trúc rõ rệt, nhằm mục đích mang lại sự hiểu
biết đích thật về bản chất của mọi sự vật . Trên thực tế thì mọi vật thể đều vô
thường, bất toại nguyện và vô cá-tính, thế nhưng chỉ vì hiểu biết sai lầm mà tất
cả mọi con người đều bị chúng thu hút để rồi bám víu vào chúng. Phép tu tập Phật
Giáo dựa trên đạo đức (sila - tu giới), sự tập
trung (samadhi - tu định) và trí tuệ
(pannâ - tu tuệ), là một phương
tiện giúp loại trừ hoàn toàn sự ham muốn và bám víu. Các đối tượng của sự bám víu
là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) gồm: thân
xác, giác cảm, sự nhận biết, tâm ý (tác ý - active thinking) và tri thức
giác cảm (hay tri thức - consciousness). Khi nào
chúng ta nhận thức được bản chất đích thật của năm thứ cấu hợp đó là gì thì chúng
ta sẽ hiểu được mọi vật thể, hiểu tường tận đến độ sự ham muốn đối với chúng sẽ
chuyển thành sự tỉnh ngộ (vỡ mộng: không có gì đáng để có, để trở thành
như thế, vì tất cả đều vô thường, khổ đau và chẳng thuộc về ai cả - vô ngã), và rồi dần
dần chúng ta sẽ gỡ bỏ được tất cả.
Những gì mà chúng ta cần phải làm là
biết sống phù hợp với các nguyên tắc của một cuộc sống đúng đắn (samma vihâreyyum) và ngày đêm hãy để cho
lòng mình tràn ngập bởi một niềm hân hoan phát sinh từ cách hành xử luôn tràn đầy
lòng tốt, mang các nét thật đẹp và ngay thật. Những điều ấy sẽ giúp cho chúng
ta ngăn chận bớt những ngõ ngách lắc léo và bất tận của tư duy, giúp chúng ta tập
trung và đạt được một sự quán thấy sâu xa về mọi sự vật, dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Sau đó khi gặp được các điều kiện thuận lợi (cơ duyên
đã đến) thì sự tỉnh ngộ sẽ xảy ra và rồi ta sẽ hiểu được là
phải đấu tranh như thế nào để lánh xa những vật thể trong thế giới này, không còn
bị chúng trói buộc nữa, kể cả việc đạt được Niết-bàn. Nếu chúng ta muốn đi
nhanh hơn thế và đạt được kết quả thật mau lẹ thì cũng sẽ có cách: đấy là con
đường tu tập gọi là vipassanâ, một phép
luyện tập khởi đầu bằng sự tinh khiết đạo đức (bằng sự giữ
giới), sau đó là sự tinh khiết tâm thần (sự tập trung - thiền định - tu định) và tiếp tục
cho đến lúc đạt được một sự quán thấy sâu xa và hoàn toàn minh bạch bằng trực
giác (trí tuệ - tu tuệ). Đấy là cách
đập tan vĩnh viễn các thứ gông cùm khóa chặt chúng ta trong thế giới này, hầu
giúp chúng ta đạt được quả tối thượng của Con Đường.
Trên đây là tóm lược thật ngắn gọn từ
đầu đến cuối Đạo Pháp của Đức Phật (Buddha-Dhamma). Trong đó
gồm cả lý thuyết lẫn thực hành và đồng thời nêu lên tất cả các chủ đề khác
nhau, từ các bước chập chững đầu tiên trên Con Đường cho đến Quả tối thượng. Câu
chuyện dừng lại ở Niết-bàn. Đức Phật đã từng nói như sau: "Tất cả chư Phật
đều công nhận Niết-bàn là một sự lợi ích lớn lao hơn cả". Vậy thì chúng ta
hãy đem những thứ ấy ra để áp dụng hầu thực hiện và đạt được những gì phải thực
hiện và phải đạt được. Nhờ vào đó chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là những người
Phật Giáo, chúng ta phát huy sự quán thấy sâu xa và sẽ khám phá ra sự tinh anh đích
thật trong Đạo Pháp của Đức Phật. Nếu chúng ta không lo tu tập Đạo Pháp của Đức
Phật mà nghĩ rằng chỉ cần biết đến Đạo Pháp của Đức Phật là đủ, thì chúng ta sẽ
không bao giờ nhận thức được bất cứ một thứ gì cả. Mỗi người trong chúng ta phải
sử dụng phép nội quán để quan sát và tìm hiểu những khiếm khuyết của mình hầu tìm
cách để hoàn toàn sửa đổi chúng. Nếu chúng ta chỉ thành công một nửa thì ít ra
chúng ta cũng đạt được một sự hiểu biết minh bạch, và sau đó dần dần khi các thứ
ô nhiễm được tẩy xóa thì chỗ của chúng sẽ được thay vào bằng một sự tinh khiết
và sự quán thấy an bình và sâu xa (một cách trình bày vô cùng kín đáo và khéo
léo: nếu chúng ta không thành công ngay trong kiếp sống này thì sự hiểu biết
minh bạch cũng sẽ còn đó để giúp ta trong tương lai).
Chính vì thế tôi khuyên quý vị hãy đến
với Đạo Pháp của Đức Phật đúng với những gì được trình bày trên đây. Biết đâu Đạo
Pháp ấy của Đức Phật sẽ có thể giúp quý vị "bước được vào dòng chảy".
Đừng đánh mất dịp may mà chúng ta hiện có dưới thể dạng con người và được biết
đến giáo huấn của Đức Phật. Xin quý vị đừng đánh mất dịp may giúp mình trở thành
một con người hoàn hảo.
Bures-Sur-Yvette, 09.01.12
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)